Truyện Ngắn và Thơ!

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi Phúc Thịnh, 19/4/12.

  1. Thiên Tốc Tinh

    Thiên Tốc Tinh Thần Tài

    Nốt Ruồi trên sống Mũi
    Võ Xuân Phương
    [​IMG]
    Từ nhỏ Thầy Hoàng đã bị bệnh mề đay, cứ mỗi lần có gió bấc, và bị ướt nước là mề đay nổi lên ngứa rất khó chịu, nhất là những lúc trên lớp, mặt đỏ rần lên, những vùng da non nổi thành dề, phải gãi, mới thấy dễ chịu, càng gãi càng ngứa, càng gãi, có lúc xước máu chảy, lúc nhỏ, Thầy Hoàng thường được Ba thoa rượu ngâm hạt ngò sàng giã nát, sưởi lửa thì đỡ. Một phụ huynh học sinh lớp Thầy chủ nhiệm, biết thuốc nam bày tìm cây chó đẻ sắc nước uống, vì gan yếu nên thường nổi mề đay, Thầy lại nghe nói do dị ứng nữa.

    Hỏi thăm được biết vùng ven chợ Phủ có nhiều loại cây này, đâu như chỗ nghĩa địa họ Phạm, nơi đường rẽ từ quốc lộ 1 sang xã Vân Hiệp, Thầy đến, nhổ một bó lớn, cột sau xe, đến quán nước trước cồng trường Đào Tấn vào nghỉ, Thầy còn nghe nói ông chủ quán này “rất uyên bác”.

    - Bác cho cháu chai nước lọc. Trong quán lúc này không có khách, có hai người lớn tuổi đang chơi cờ, một ông đứng dậy đi lấy nước, à, đây là ông chủ quán, khoảng trên 70, cao, hơi ốm, nhưng nhanh nhẹn,
    - Cháu uống không có đá. Sau khi để ly và chai nước lên bàn, ông trở lại bàn cờ, Thầy Hoàng khui chai nước, rót ra ly.
    - Chú nhổ cây chó đẻ này ở vườn gần đây phải không?
    - Vâng, cháu nghe người ta chỉ.
    - Chú ở xa đến?
    - Vâng, cháu ở thị trấn Vân Phước lên,
    - Lần đầu chú vào đây,
    - Vâng, sao Bác biết,
    - Ở đây thường người ta nói trổng, chú không như vậy, người ở vùng này không ai nhổ cây chó đẻ trong vườn đó cả, mà chú lấy cây chó đẻ về làm gì mà nhiều vậy.
    - Cháu bị bệnh mề đay, được một phụ huynh lớp cháu chủ nhiệm bày lấy loại cây này sắc nước uống sẽ khỏi. mà sao Bác biết cháu nhổ ở nghĩa địa đó.
    - À, vậy là Thầy giáo, à, chỉ ở nghĩa địa đó mới có chó đẻ xanh tốt thế kia, mà Thầy dạy trường nào.
    - Dạ, cháu dạy trường Vân Phước,
    - Ông lại dục tốt đầu rồi, à, à, bắt đầu gay đấy, chưa gì mà dục tốt đầu. Thầy Hoàng nghe ông chủ quán lẩm nhẩm.
    - Loại chó đẻ cao và tốt thế kia chắc Thầy nhổ ở trên cái mả gần bờ rào,
    - Vâng, cây ở trên mả đó tốt và nhiều lắm,
    - Thầy biết đó là mả của ai không? Là mả của tay Thầy Phạm Thái Sáng đấy, trước cũng dạy ở trường Thầy, sau leo dần đến hiệu phó, rồi chuyển sang làm hiệu trưởng trường Đào Tấn này, khu đất Thầy vào khi nãy là nghĩa địa của họ Phạm vùng này, trước là đám đất thổ, sau đó được dòng họ Phạm dùng chôn người chết trong họ, rồi thành nghĩa địa của họ luôn, mà trước đây đâu có loại cây chó đẻ mọc trong nghĩa địa đó, chỉ khi chôn tay Thầy Sáng thì loại cây này bắt đầu mọc, mà mọc trên mả tay Thầy Sáng trước, sau lan ra khắp đám đất, phủ kín cả nghĩa địa, nên dân ở đây gọi nghĩa địa đó là nghĩa địa chó đẻ! Chỉ tốt và nhiều ở nghĩa địa đó, mà tốt nhất là trên mả tay Thầy Sáng, ông biết sao không, ông chủ quán đang nói với Thầy Hoàng, rồi nhảy sang ông bạn đang chơi cờ với mình, có người vào mua mì gói, ông đi lấy, rồi tiếp tục ngồi vào bàn cờ.
    - Đó là mắc lời thề, mấy bà trong xóm đến đây chơi nói vậy

    Số là lúc làm hiệu phó ở trường Vân Phước trong đợt thi tốt nghiệp THPT tay này ở lại làm phó chủ tịch sở tại, Thầy Thơm có đứa cháu gọi bằng cậu ở xã Vân Hiệp thi, trước khi đi coi thi ở nơi khác, Thầy Thơm có đến gặp tay Sáng này gởi, đưa số ký danh, tay Sáng này cất cẩn thận, nói cháu anh như cháu tôi, anh yên tâm, anh đã nhiều lần giúp em, cháu tôi rồi, nay giúp lại nhau đó mà, Thầy Thơm biết tay Sáng này hứa, ít giữ lời, nên dặn đi dặn lại nhiều lần, tay Sáng mới thề, nếu tôi không giúp cháu anh thì tôi là quân chó đẻ. Khi đi coi thi nơi khác về, Thầy Thơm gặp tay Sáng hỏi thế nào, tay Sáng nói hôm thi môn toán đã gởi Thầy Phan Ngọc Thập rồi, anh yên tâm, Thầy Thập rất cẩn thận và giữ chữ tín, nghe Thầy Thập nói tốt, chắc cháu anh 10 điểm toán quá, Thầy Thơm cảm ơn tay Sáng, Thầy Thơm đến gặp Thầy Thập để cảm ơn, thì Thầy Thập nói, đâu có! Thầy Sáng có gởi em thằng Tùng, nói là con ông Đô Thành, cháu gọi ông Đồng Văn Hoàng phó chủ tịch huyện bằng cậu, có nói gì đến thằng Tuấn cháu Thầy đâu, nếu Thầy Sáng nói luôn thằng Tuấn cháu Thầy, thì em chỉ luôn, vì hai đứa cùng phòng, sau đó Thầy Thơm gặp tay Sáng nói lại, thì ông biết tay Sáng trả lời sao không.

    - Chắc là nói loanh quanh, hoặc đổ thừa Thầy Thập không chỉ mà nói trớ.
    Ông chủ quán ngừng nói, rót nước mời bạn,
    - Chắc không ai đoán được câu trả lời của tay Sáng đâu, tôi nghĩ chỉ có người thô bỉ, đê tiện, xảo trá như chả mới nghĩ được câu trả lời như vậy, ông chủ quán đưa tay dịch con cờ, Thầy Hoàng nghe người bạn nói chà chà, định thọc pháo chiếu hậu chớ gì, ông thâm thật, mà tay Sáng trả lời sao,

    Thầy Hoàng khi về dạy ở Vân Phước nghe nói nhiều về ông chủ quán này, trước 75 khu đất xây trường là của ông chủ quán hiến xây trường, vì bậc trung học phải xuống Qui Nhơn học, xa, một số con em nhà nghèo không đi học được, với mong muốn con em ở huyện có chỗ học gần, và chỉ yêu cầu là con, cháu ruột của ông được vào học không qua thi vào lớp sáu, ông cất quán bán các vật dụng cho học sinh, bán nước giải khát, trong khuôn viên trường, có lần một Thầy dạy tiếng Pháp mới về trường, nói với các học sinh là, các em coi tôi như quyển tự điển dễ lật, không biết gì về tiếng Pháp, hỏi, tôi trả lời nhanh hơn., hôm ông Thầy tiếng Pháp và một số Thầy Cô giáo xuống quán uống nước, ông chủ quán nói, hôm đi ăn giỗ có người nhờ ông dịch câu tiếng Pháp “quýt xờ mông bông sên”
    (*), ông chịu, ai cũng biết trước đây ông học chương trình Pháp và có bằng prime, ông Thầy dạy tiếng Pháp suy nghĩ mãi, không thể nào dịch được, từ đó ông Thầy dạy tiếng Pháp ít huênh hoang hơn!
    - Mà tay Thầy Sáng trả lời sao? Ông bạn giục,
    Ông chủ quán thong thả, dịch một con cờ, uống một ngụm nước, nói
    - Tay Sáng trả lời tôi nhớ lộn số ký danh! Ông biết Thầy Thơm nói với giáo viên trong trường sao không, khi đó tôi muốn nhổ nước miếng vào mặt nó, mà tôi cố gắng dằn lắm, mới thôi. Ông thấy như vậy có chó đẻ không, thật là quân đê tiện, mà ông biết trước đây Thầy Thơm đã chỉ bài cho thằng em cùng mẹ khác cha với thằng chả vào lớp 10, cái thằng con tay Lãi trước làm xã trưởng Vân Lộc của mình đây, từ thành phố nó đưa về đây thi, hay thằng gì con chị vợ nó, gọi nó bằng dượng, nhà ở gần đường xe lửa, vùng chợ cây me, thế mà nó đối xử mặt mẹt với Thầy Thơm vậy, ông thấy như vậy có chó đẻ không!
    - Chó đẻ thật! ông bạn đệm thêm
    - Nghe nói, cô em của Thầy Thơm trách Thầy rất nhiều, mãi nhiều năm sau mới nhìn mặt lại! mà chưa hết đâu, bà Bông còn kể, năm tay Sáng này làm chủ tịch hội đồng thi ở thị trấn Nhớ Người, Thầy Thơm cũng coi thi ở đó, đêm trước hôm thi môn của Thầy Thơm, tay Sáng mời Thầy Thơm lên phòng chủ tịch, ở đó đã có tay thư ký hội đồng thi, và một ông, được tay Sáng giới thiệu là chủ tịch hội cha mẹ học sinh của trường, sau ly nước trà, tay Sáng nói ông chủ tịch hội có con thi, mai anh vào phòng con anh chủ tịch, chỉ dùm cháu, Thầy Thơm rất khinh tay Sáng này, nên nói
    - Tôi và anh này, chỉ ông chủ tịch hội cha mẹ học sinh, không liên quan gì cả, nhưng anh nhờ, tôi sẽ chỉ, vì trước đây tôi và anh có thời gian là bạn nhau.
    Khi đưa Thầy Thơm về phòng tay Sáng nói,
    - Mai tôi vẫn bố trí anh vào phòng của cháu, nhưng anh đừng chỉ chi, lỡ có chuyện gì thì rắc rối.

    Thầy Thơm nói, sao anh nói vậy, khi nãy tôi đã hứa với anh chủ tịch rồi! Sau này Thầy Thơm có kể chuyện này với Thầy Ngọc Sáng, thì Thầy Ngọc Sáng nói, nhiều người cho đây là sự khôn khéo của Thầy Thái Sáng!

    - Quân chó đẻ thật, ông bạn nói trổng.
    - Thế người ta ở đây mới gọi chả là Sáng Nhạc Bất Quần!
    Ông biết về tay Thái Sáng nhiều quá, hèn gì tay Sáng gọi ông là lão quán rằng
    - Mình sao cũng được, đã làm Thầy thì đừng thầy rằng như chả, xấu lắm, học sinh và cha, mẹ học sinh có ngàn mắt, ngàn tai, anh dấu diếm cái đê tiện, cái xảo trá của anh bằng cách nào người ta cũng biết, người ta không chửi anh khi còn quyền, thì người ta chửi anh khi hết quyền, người ta không chửi anh khi anh còn sống, thì người ta sẽ chửi anh khi anh chết, người ta không chửi anh, thì người ta chửi đến con, đến cháu anh, có khi người ta chửi cả dòng họ của anh!
    - Mà tướng tá tay Sáng này thấy cũng tốt, sao mà tâm địa xấu xa vậy,
    - Ông không để ý đó thôi, mặt nó là mặt gà mái, tướng Câu Tiễn đấy, nhưng ác nhất là trên sống mũi của chả có một nốt ruồi rất nhỏ, màu đen, đó là nốt ruồi phá đấy.

    Thầy Hoàng trả tiền, lững thững ra khỏi quán, lên xe về khu nhà ở, Thầy suy nghĩ nhiều, qua khỏi cua, thấy ngôi chùa, Thầy ghé vào đi loanh quoanh, bao nhiêu điều tủi buồn nghề Thầy, tiếng ông chủ quán nói, đã làm Thầy thì đừng thầy rằng như chả, xấu lắm, anh dấu diếm cái đê tiện của anh bằng cách nào người ta cũng biết. Thầy còn nghe nói, nếu người không biết thì Trời, Phật cũng biết, cách không xa ngôi chùa là nhà thờ. Thầy ra xe đi tiếp, dừng lại trên cầu, nhìn dòng nước trong chảy xuôi, Thầy lấy bó cây chó đẻ ném xuống mương, bó cây chó đẻ, xanh mượt, to, lừng thừng trôi, chợt Thầy chạy dọc theo bờ mương, lấy cây khèo bó chó đẻ lại, lẩm nhẩm, không được, lá và cây này tan vào nước, nước vào ruộng, rễ lúa hút nước, hút luôn bản chất đê tiện có trong cây thì nguy! Đi một lúc thấy có đống phân bò to, Thầy ném vào mong nó mục nát đi, đứng trầm ngâm suy nghĩ, Thầy thấy cũng không được, lỡ người ta dùng phân này bón rau thì sao, Thầy cầm lên, nhìn bó chó đẻ, giờ thấy ghê tởm, trong nó có mầm đê tiện và xảo trá, giờ biết làm sao đây! Chợt thấy có đống rác đang đốt, Thầy ném vào, nhìn, những cọng, lá thâm lại, quăn queo, rồi đen và cháy, Thầy lấy thanh tre, lật nhiều lần cho cháy hết, mới thanh thản đi về. Lẩm nhẩm,


    Thà bị nổi mề đay, ngứa khó chịu, nhưng là bên ngoài. Còn hơn uống loại cây chó đẻ này, có bớt bệnh, lỡ cái đê tiện và xảo trá nó lây sang thì nguy!
    _______________________________________________________________________________________________
    Chú thích:
    (*) “quýt xờ mông bông sên”: quăng xơ mít bên sông. Nói lái theo cách Bình Định
    .
     
    No MercY, Aprilia and Sân Mây like this.
  2. Makino123

    Makino123 Thành Viên

    Thanks so much as this entry! :)
     
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 3 others like this.
  3. Thiên Tốc Tinh

    Thiên Tốc Tinh Thần Tài

    Giấc mơ cô bán trứng
    Lưu Thuỷ Hương

    [​IMG]
    dưới quê Lài một chục trứng có mười tám cái, trên thành phố này một chục chỉ còn có mười hai. Mấy con gà làm ổ trong xó bếp nhà Lài ngày nào cũng kêu đẻ, mặt đỏ phừng phừng, cục tác cục ta ỏm tỏi nhưng thiệt ra cái giống gà này bày đặt làm bộ cho lớn tiếng vậy thôi chứ đẻ xong rồi là te te bỏ đi, trứng còn đó hay bị chủ lấy mất không khi nào tụi nó lý tới.

    Con đường hẻm chật chội lổm nhổm xà bần đọng tướt nước bùn và rau bún thúi trôi từ ngoài đầu ngõ vô. Ánh sáng buổi sớm khó nhọc lắm mới xuyên qua được mấy lớp tôn gác xiên xẹo rọi mấy đốm sáng lên mặt tường lở lói. Lài nhìn lại lần cuối cánh cửa căn phòng trọ chật hẹp nơi đã sống lủi thủi qua một mùa mưa. Trời trên cao bỗng đổ nước lộp bộp, vài giọt nước đầu tiên rớt qua mé giáp mái tôn rồi đọng thành dòng tuôn chảy lỏng tỏng xuống lòng đường. Lài cúi đầu né mấy dòng nước, ôm chặt cái giỏ vô lòng đi nhanh về phía đầu ngõ. Mùi bún riêu bánh canh thơm lừng từ phía đó đang bay ngược vô hẻm quyện theo mùi nước đọng.

    Mười hai cái trứng tròn trịa nằm trong lớp bao ni long mỏng tanh, nếu bao rách mười hai cái trứng sẽ rớt xuống đất bể tan tành.

    Trứng gì cũng vậy thôi, vỏ trứng mỏng manh lắm chỉ cần đập nhẹ lên thành tô là nứt nẻ. Lòng trứng đỏ au đỏ ất nổi lừ đừ trong cái tô sành, đâm nhẹ đầu đũa là phọt phèo. Tô canh chua thơm có con cá rô đồng nằm phơi bụng xám ngắt, đám trứng vàng phòi ra từ chỗ bụng rách trôi lờ đờ trong đám lá rau om. Lài nhìn đám trứng bể, nghe mùi trứng bể, ruột gan cuộn ngược nhợn nhạo muốn ói. Mồ hôi đổ ra trên sống lưng. Mồ hôi chảy ướt kẽ nách. Lài rùng mình ớn lạnh, dợm chân không muốn bước tới, nhưng rồi Lài tự hối thúc mình, phải ráng thôi. Tới nước này rồi mà không ráng là không được. Hôm nay là bữa cuối cùng, ráng bán hết trứng rồi về.

    Chiếc xe hơi màu đen bóng loáng đậu ngoài đầu ngõ, hai ngọn đèn pha sáng chói rọi xuyên qua màn mưa, rọi thẳng vô con đường hẹp. Mấy người đàn ông đàn bà lam lũ ngồi chen chúc dưới mấy tấm bạt sũng nước, ngước mắt tò mò nhìn ra, ngước mắt tò mò nhìn Lài rồi lại cúi đầu xuống tô bún.

    Khi Lài ôm giỏ chạy ra tới bên hông xe, cánh cửa cũng vừa bật mở ra. Người đàn bà ngồi ghế sau chồm người tới, hấp tấp la lên: "Vô lẹ lên, em. Ướt hết rồi." Lài lọng cọng chui vô, để cái giỏ xuống chân rồi lại ôm cái giỏ lên bụng, hai tay vòng ra đằng trước khư khư giữ mớ trứng. Hôm nay là bữa cuối cùng rồi, lỡ có chuyện gì bất trắc rồi làm sao.

    "Khoẻ không em?” Lài giật mình quay sang nhìn người đàn bà, hấp tấp gật đầu, miệng bật ra một câu xã giao: "Chị Tâm khoẻ không?". Chị Tâm cũng hấp tấp gật đầu, cặp kính mát đen thui che hết nửa khuôn mặt nhưng không che nổi nụ cười gượng gạo lo âu. Chắc chị không lo cho Lài mà lo cho mớ trứng. Hôm nay là bữa cuối cùng rồi, lỡ có chuyện gì bất trắc rồi làm sao.

    Xe ra tới đường lớn thì trời ngưng mưa, nắng sáng le lói sau mấy hàng cột điện giăng mắc đùm đề, nắng chạy dọc qua những vách nhà cao tầng sơn xanh sơn hồng. Con đường vô thành phố đang giờ cao điểm, sau cơn mưa đông nghẹt người, đông như là tổ kiến bể, con nào con nấy hớt hải bò ra chạy tán loạn. Xe hơi thắng gấp, xém tông vô con nhỏ lớ ngớ tính băng đại qua đường. Bộ mặt đứa con nít hoảng hốt trôi xẹt qua cửa kính. Tim Lài nhói đau như có bàn tay ai thụi vô, mấy cái trứng dưới bụng cũng hoảng hốt muốn lộn ngược lên. Ai như con Trâm. Trời Đất, con Trâm, sao chạy hớt hơ hớt hải ở đây vậy cà. Lài chồm ra cửa, đầu đụng cái bộp lên tấm kính.

    Bàn tay chị Tâm thò qua nắm cổ tay Lài, bàn tay chị cũng hâm hấp sốt. Hôm nay là bữa cuối cùng rồi, xong chuyện là lãnh tiền rồi chia tay nhau. Theo đúng giao kèo mua bán, không liên lạc gì với nhau nữa, không gây phiền nhiễu gì cho chị nữa. Bàn tay gầy đét của chị từ từ thả ra, Lài tưởng như hơi nóng trên da tay mình nhờ đó mà dịu đi một tí. Bàn tay chị rút về để ngay ngắn trên đùi, lớp da khô sạm gân guốc phơi trên nền vải bông mềm bóng rực rỡ.

    Người tài xế lại thắng gấp rồi chửi đổng một tiếng cộc lốc.

    Trong xe loảng thoảng mùi dầu thơm, mùi ghế nệm, mùi da bọc, mùi trứng chiên… mùi đàn ông. Lài nhắm mắt lại, mùi mồ hôi lạ vẫn xông vô mũi. Nếu bây giờ Lài mở mắt ra, cái nhìn của Lài sẽ đập vô mái tóc hớt ngắn tua tủa như bàn chải, cái cổ nám đen mốc đất. Lài nghẹn ngào đặt tay lên bụng lại thấy nhộn nhạo muốn ói. Chỉ một lần này thôi. Ráng một lần này thôi. Hôm nay là bữa cuối cùng rồi, ráng một lần là được một chục mười hai cái. Lài nhắm nghiền hai mắt không muốn nghĩ tới chuyện đó nữa, nhưng Lài cũng không biết, nghĩ tới cái gì cho đỡ lo hơn, bụng bên nào thì căng hơn bụng bên nào. Chiều hôm kia, y tá chích đùi bên trái, chân trái Lài đi cà nhắc. Chiều hôm qua, y tá chích đùi bên phải, chân phải Lài đi cà thọt. Bây giờ hai chân đều tê đau, đều sưng phù. Lài lần tay xuống xoa lên bắp chân bủng beo, dừng ở đó rồi lại lần ngược lên bụng giữ chặt cái giỏ.

    Người tài xế lẩm bẩm hát: "Em ơi hãy ngủ…”

    Lài giật mình mở mắt ra. Con đường phía trước đổ nắng chang chang, máy lạnh trong xe thổi ra từng luồng hơi lạnh toát. Người Lài lại lên cơn sốt, nửa nóng hầm hập nửa ớn lạnh dọc cột sống. Tiếng hát khàn khàn đứt khúc của người đàn ông làm Lài khó chịu bứt rứt, định la lên, anh làm ơn ngậm cái miệng lại dùm, nhưng rồi Lài nín thinh. Ai mà la lối lỗ mãng trong xe bạn hàng như vậy, hư bột hư đường hết rồi sao. Chuyện mua bán đành rằng có giao kèo bằng miệng có bà cò làm chứng, nhưng mình là người chịu ơn người ta, phải ráng mà nhịn nhục. Hôm nay là bữa cuối cùng rồi. Chỉ tại suốt mấy đêm liền Lài không ngủ được nên mới đâm ra khó chịu cộc cằn như vầy. Đêm nằm mà ứa nước mắt, nghe da thịt mình bức bối như thứ đàn bà dâm ô mất nết. Bàn tay Lài giật banh nút áo, quặn người nhìn xuống cặp bưởi năm roi căng mọng trắng lờ. Lài nhắm nghiền hai mắt mà thở dốc, cơn ấm ách dâng lên từ cái bụng trương phềnh. Người Lài mấy hôm nay như trái cà chua căng mọng, như trái xoài cát chín mùi. Bác sĩ nói, cơ thể thay đổi vậy là bình thường, lượng hormon sẽ tăng từ từ cho tới ngày cuối. Mười hai cái trứng chứ ít ỏi gì. Rạo rực thúc bách chịu đựng phải tăng mười hai lần. Đau đớn nhục nhã cam chịu tăng mười hai lần.

    Mấy con mèo hoang đuổi nhau rậm rượt trên mái tôn, lịch thịch cọt kẹt thâu đêm. Ngực bên trái căng hơn ngực bên phải, hơi dồn lại ở đó, tức không thở được. Bụng bên phải nhiều trứng hơn bên trái, máu dồn qua đó, tê luôn một chân. Lài tức giận quăng cái ca nhựa lên nóc nhà hét lên: "Mấy con mèo mắc dịch!" Lài nghe tiếng cái ca nhựa đập trúng mép tôn, nghe giọng mình rổn rảng bể ra trong bóng tối tự dưng cũng đâm hoảng. Mấy con mèo cũng hoảng, im thin thít nghe ngóng một hồi rồi lại tiếp tục "ngheo… ngheo…". Tổ cha tụi nó, lần này còn dằng dật hơn lần trước. Lài ngồi ôm mười hai cái trứng đòi phóng sinh hoảng loạn nghe mái tôn lại rung rinh lạo xạo, cố nghĩ tới căn nhà lá tồi tàn bên triền dừa nước. Trong góc nhà, chồng Lài mặc cái áo thun dính đầy mủ chuối nằm ngủ co ro bên hai đứa nhỏ. Lài tựa lưng ra sau ôm bụng thở hổn hển, chỉ sợ khuôn mặt bảnh bao của người đàn ông xa lạ lại hiện ra. Thân hình anh ta lành lặn. Cái áo sơ mi màu hồng sạch sẽ. Lài ứa nước mắt tủi hổ, mười hai đứa này đều là con của anh ta.

    Mùi đàn ông nồng nặc trong xe xồng xộc xông tới. Lài bần thần nghĩ, không biết trong bụng con gà có bao nhiêu cái trứng, trong bụng con cá có bao nhiêu cái trứng. Ánh mắt người tài xế nhìn qua kính chiếu hậu, đăm đăm trên bụng Lài. Trong bụng con người…? Trời Đất, ai hỏi gì ác nhơn vậy.

    Bác sĩ nói, mười hai.

    Không biết đã có bao nhiêu người đàn bà từng bị chở đi trên chiếc xe này? Trên đoạn đường này? Nghĩ tới đó, bỗng dưng tay chân Lài lạnh ngắt. "Lạnh quá! Lạnh…" Người tài xế đưa tay tắt bớt máy điều hòa. Lài co rúm lại rúc vô trong góc ghế nệm, ráng nghĩ tới một cái gì khác, xốn xang hy vọng, số tiền bán trứng sẽ đưa Lài về lại dưới quê.

    Bác xe ôm đứng đầu chợ nhìn Lài ngồi trên chiếc xe hơi đen, ló đầu lên sau tấm kính. Cái miệng móm mém mấp máy điều gì với người khách quen. Lài quay mặt đi để khỏi nhìn thấy bộ mặt già nua méo mó trôi trên đường. Hôm nay là bữa cuối cùng rồi, bác không cần chờ để chở Lài về nhà trọ đâu. Qua suốt con đường dài đông nghẹt xe cộ, Lài ngồi yên sau lo lắng ôm bụng qua mỗi lần xốc ổ gà. Đám trứng trong bụng Lài đầy căng óc ách. Bác lái xe ôm không nói gì chỉ chạy chậm hơn cẩn thận hơn. Bao nhiêu năm đưa khách tứ xứ chắc bác chẳng lạ gì chuyện đời. Cánh tay già nua lẻo khẻo ráng giữ chặt tay lái thỉnh thoảng lại lao đao vì mấy chiếc xe hàng hung ác lấn qua. Lài không dám thuê tài xế trẻ, sợ phải ngồi phía sau gần gũi chịu đựng suốt đoạn đường dài, sợ trùng trình ham hố đứng bên một người đàn ông khoẻ mạnh ngay trước cổng nhà. Bác chỉ cười móm mém nhận tiền của Lài rồi xạch đụi đạp xe chạy đi, không đếm lại tiền, không hỏi thêm chuyện gì.

    Lài ớn lạnh co quắp người lại, hình như sốt dữ lắm. Bác sĩ nói, nếu Lài sốt cao thì phải ngưng chích thuốc, kể như bỏ ca này. Lài chảy nước mắt cầu xin, không bỏ được đâu, Lài già lắm rồi dễ gì còn tìm được mối khác. Mũi kim đâm vô đùi, Lài nghiến răng trân trân nhìn mũi kim bật ngược ra. Cô y tá mặt đẹp như ca sĩ nhíu cặp lông mày mỏng te, nạt nộ: "Nhìn ra chỗ khác được không?" Lài lật đật nhìn ra chỗ khác, tự dưng rồi nhớ tới mấy con chim cút. Có một lúc cả xóm Lài rủ nhau nuôi cút lấy trứng xuất khẩu. Cái giống chim này nuôi khó giàng trời mây luôn, chuồng trại phải kín đáo yên tĩnh chứ nghe ồn ào là tụi nó nín đẻ liền. Hôm con Vện đuổi cắn con Mướp vô chỗ chuồng cút mà bầy cút hoảng hồn ngưng đẻ luôn hai tuần. Y tá lại la lên: "Giãn bắp cơ dùm coi. Gồng là gãy kim! Lẹ dùm. Còn bao nhiêu người đợi ngoài kia." Lài ôm bụng năn nỉ: "Cô la nhỏ nhỏ dùm, tui mà sợ quá là tui mất trứng."

    Cô ca sĩ trố cặp mắt tím ngắt nhìn Lài, mũi kim chúc xuống đất thuốc chảy ròng ròng. Lài lật đật quay mặt nhìn ra cửa sổ, hít một hơi rồi duỗi chân ra. Lài không sợ cô này, cũng không sợ gãy kim mà chỉ sợ mấy cái trứng thiếu thuốc rồi lớn không nổi. Ngoài cửa sổ con nhỏ bán vé số khuôn mặt già đét đang lượn qua lượn lại chỗ mấy người bán hàng rong. Thằng nhỏ đánh giày bằng cỡ thằng Đước, miếng áo hở bụng cũ sì, lem nhem như cháo huyết. Lài nhìn nó rồi đau thắt bên ngực trái, không biết chiều nay con Trâm nấu cơm có sống không. Không biết mấy cha con tụi nó ăn cái gì.

    Chị Tâm ngồi kế bên lại lo lắng quay sang, lại nắm chặt tay Lài trong bàn tay khô quắt chai sần. Lài để tay mình nằm yên trong tay chị, dù gì, chỗ chị em gái cũng còn chút tình cảm để chia sẻ với nhau. Giữa bao nhiêu người đàn bà nghèo sẵn sàng bán đi phần máu thịt của mình, chị đã chọn Lài. Hai người xa lạ vì duyên nghiệp gì mà lại mang hai khuôn mặt giống hệt nhau. Chắc rồi chị sẽ ôm đứa con của Lài trong tay, sung sướng thấy nó càng lớn lên càng giống chị.

    Bác sĩ rà cần siêu âm trên bụng Lài, nhìn chị Tâm cười tươi roi rói: "Kết quả khả quan lắm nghen, trứng cô này phát triển đều ghê." Một, hai, ba, bốn… cô y tá cắm cúi ghi số liệu. Mười tám là chẵn một chục, ở quê Lài người ta tính như vậy. Nhưng ở thành phố một chục chỉ cần có mười hai thôi. Mười tám là lời nhiều lắm. Bác sĩ nói, một ca cấy chỉ cần bốn năm cái. Chị Tâm lật đật gật đầu. Bác sĩ khuyên chị Tâm trữ lạnh trứng, chị Tâm mở to mắt nhìn bác sĩ, chẳng biết nghĩ gì lại gật đầu. Lài nằm trên giường siêu âm, bụng bên phải tự nhiên quặn nhói, Trời Đất, mấy đứa con của Lài sẽ bị nhà thương đông lạnh. Tụi nó nằm chen chúc co ro trong tủ lạnh chắc giống như mấy cái chả giò Cầu Tre trong tủ đá quán bà Tư Chẵn. Không ai hỏi Lài, không ai nói gì với Lài, tự họ quyết định mình ên với nhau. Mà người bán thì có quyền gì để mà nói, giá cả giao kèo thỏa thuận xong xuôi rồi, trứng hút ra là của người ta.

    Người đàn ông bảnh bao đang ngồi đọc báo ở góc phòng. Cái áo sơ mi màu hồng phẳng phiu sạch sẽ. Ánh mắt từ trang báo ngước lên nhìn Lài bỗng ngượng ngùng quay đi như là có lỗi. Lài ôm chặt cái giỏ đứng sững bên cửa phòng siêu âm nhìn chăm chăm người đàn ông, hai chân Lài mềm nhũn không bước đi nổi. Người đó sẽ là cha của mấy đứa nhỏ con Lài.

    Y tá đưa cho chị Tâm cái ly nhựa có nắp đậy màu xanh, thân thiện ngọt ngào dặn dò mấy câu trấn an. Vậy mà chị nhìn cái ly trân trối, mặt chị cũng tái xanh như cái nắp ly. Chồng chị đút hai tay vô túi quần đuổi theo cô y tá, hai vai nhô cao như đang ráng sức nhảy lên từng bước. Chị Tâm cầm cái ly màu xanh đưa lên ngang tầm mắt nhìn thêm một lần nữa, rồi chị lủi thủi đuổi theo chồng. Lúc này Lài thấy thương chị hết sức, chồng bảnh bao như vậy mà không con cái gì thì khổ lắm. Thôi thì coi như chuyện này là làm phước cho người khác, mà bác sĩ cũng giải thích rồi, chỉ cần cái ly, không cần gần gũi. Chẳng có gì sai trái hết.

    Cô y tá mặc áo xanh đưa Lài qua phòng mổ. Lài cẩn thận bỏ cái giỏ xuống góc phòng, dặn cô y tá: "Cô coi chừng cái giỏ dùm nghe.. trong đó có…." Vừa nói tới đó Lài liền đâm hoảng, nói gở như vầy lỡ mình có chuyện gì rồi sao.

    Cô y tá ầm ừ đỡ Lài lên nằm trên ghế. Hai chân gác cao lênh khênh trên giá đỡ, lúc này Lài muốn co quắp người lại mà không sao co được. Lài thấy mình giống con heo bị cột nằm trên sàn mổ nhà ông Ba Thảo. Những người vây quanh Lài đều bịt mặt, lầm lũi chuẩn bị công việc. Trên khuỷu tay Lài kim đâm vô một phát đau nhói, cô y tá dán miếng băng keo bự chảng cho cây kim nằm yên luôn ở đó. Lài không chịu nổi, buột miệng hỏi, sao không rút kim ra. Một cô y tá trả lời, chừng nào lấy trứng xong xuôi thì mới rút. Nước ấm ở đâu lăn ào ào trên má, không phải tại vì đau mà tại vì sợ. Đau thì Lài chịu được, chứ sợ thì không biết phải chịu ra sao. Trần nhà trên cao trắng xóa có cái quạt máy xoay vòng vòng, một sợi dây điện màu xanh thò ra dưới chân quạt. Cái quạt càng quay càng lắc lư cứ như sắp sửa rớt xuống. Tiếng kim loại đụng vô nhau lanh canh phía dưới chân nghe sởn da gà. Một người đàn bà nắm tay Lài nói nhỏ:

    - Thôi nín đi, tỉnh dậy là hút xong rồi.

    Lài chịu không nổi nữa, khóc lớn lên:

    - Hút kiểu gì thì hút, nhưng đừng mổ bụng nghe.

    Bác sĩ nạt:

    - Giải thích mấy lần rồi, sao cứ nói nhảm? Làm gì có chuyện mổ bụng. Chuẩn bị gây mê cho rồi.

    Có tiếng người nói lớn phía trên đầu Lài:

    - Cô nghe đây, đếm một tới mười! Có biết đếm không? Biết đếm tới mười không? Chừng nào bắt đầu thấy nhập nhoạng thì nói: "Được".

    Lài đếm, một, hai, ba… Cái lạnh ở đâu bỗng tràn vô lồng ngực, lạnh toát kinh khủng. Lài la lên: "Cái giỏ…"

    Tảng đá nặng chịch đè trên ngực Lài như khối băng lạnh toát. Tảng đá chập chờn nâng lên rồi thả xuống, nâng lên rồi thả xuống rồi biến mất. Chỉ còn cảm giác lạnh lẽo. Tiếng ai đó lao xao, người nào dìu Lài đi qua hành lang, dìu Lài lên giường. "Khổ chưa!" Lài té ngửa xuống giường, muốn đứng lên mà hai chân mềm oặt như cọng giá thiu.

    Lài không biết mình thiếp đi bao nhiêu lâu, tỉnh dậy nghe đau thắt phần bụng dưới. Có tiếng khóc thút thít ở giường kế bên. Có tiếng ai thì thào:

    - Đau lắm hả? Thuốc ở trên bàn đó. Uống lẹ đi.

    Lài thò tay quờ sang bàn bên cạnh, tìm được cái ly. Viên thuốc màu cam nằm trên cái dĩa nhỏ. Lài bỏ luôn viên thuốc vô miệng. Ngụm nước tràn qua miệng ly run lẩy bẩy chảy xuống cằm, chảy qua cổ, ướt mèm vùng ngực. Lài đưa tay quẹt lên chỗ ướt mới biết mình mặc cái áo vải cứng lạ hoắc không gài nút áo, cảm giác sợ hãi bỗng tràn tới. Trời Đất, sao kỳ vậy nè, áo của ai đây, sao không gài nút. Chỗ này là chỗ nào, Lài lắp bắp nói, rồi té lăn ra giường.

    Bên ngoài mưa giông đang kéo tới, gió giựt mấy cánh cửa sổ đánh vô tường nghe thình thình. Lài lờ đờ tỉnh giấc, lảm nhảm nói: "Cái giỏ, có chiếc xe hơi nhựa chạy bằng pin của thằng Đước trong đó." Mấy bóng áo trắng chập chờn qua lại trong phòng, không thấy ai trả cái giỏ lại. Lài mơ màng thiếp đi. "Cái giỏ. Cái xe cho thằng Đước."

    Tiếng ai đó thì thào chậm rãi:

    - Tiếc là tin xấu. Buồng trứng của cô bị lệch về phía sau, nên gây trở ngại cho khâu hút trứng. Phẩu thuật bị rách thành dạ con, tổn thương buồng trứng bên phải…

    Tiếng khóc ai bể ra cái ào, hụ hụ, nghe thiệt là đau đớn. Tiếng khóc dâng lên cao rồi bỗng dưng nghẹn ngang lại như bị bóp cổ, im lặng một lúc rồi chỉ còn những tiếng sụt sịt hỉ mũi. Lài thất kinh hồn vía, muốn bò dậy chạy trốn, nhưng cả người Lài sao cứ bồng bềnh không nhấc chân lên được. Lài nằm bất động oán hận nhớ tới khuôn mặt tròn trịa của bà cò. Bà đó đâu có nói gì tới mấy chuyện nguy hiểm ghê gớm này, chỉ nói dễ lắm mà, bán trứng là nằm lên giường cho bác sĩ thò kim vô hút cái rẹt. Lài kinh hoàng nghĩ tới cái chân cụt của chồng. Hồi đó anh Bần cũng nghe lời chủ thầu hăm hở đi lên thành phố làm việc, dè đâu chưa lãnh tháng lương nào mà để lại cái chân ở công trường, tàn tật chống nạn quay về quê. Cơn đau từ bụng dưới lại kéo ngược lên, nước mắt Lài trào ra. Lài muốn đưa tay lên bụng xoa thử mấy cái để coi bụng mình còn nguyên vẹn hay không, nhưng rồi Lài không dám. Lài sợ rờ tay vô rồi thấy bụng mình bị cắt tanh banh. Trời đổ mưa ào ạt bên ngoài, từng bầu nước dội xuống đường nghe ào ào xối xả. Mấy cái bóng trắng từ giường kế bên kéo qua vây quanh chỗ Lài nằm. Người Lài mềm xìu không còn chút sức lực nào, có khi Lài chết queo từ nãy giờ rồi, đám người này tới để đưa ma. Ai đó ngồi xuống giường, mé giường bên trái lún xuống, người Lài tuột luôn về phía đó. Tiếng bác sĩ vang lên chậm rãi:

    - Cô Lài tỉnh chưa? Tốt lắm rồi. Ca hút của cô thành công mỹ mãn, lần này lấy được mười tám cái trứng.

    Lài mở banh mắt ra, ánh sáng ngọn đèn đầu giường chói chang. Bộ mặt bác sĩ nở nang hiền như ông địa. Những người khác cũng vậy, đều đang mang bộ mặt hiền hậu tươi cười. Tốt thiệt rồi sao, bàn tay Lài lật đật để lên bụng, cái bụng còn nguyên xi căng phồng. Anh Bần ơi, Đước ơi, Trâm ơi, tốt thiệt rồi, mười tám cái là chẵn một chục. Anh Bần ơi, Đước ơi, Trâm ơi, tốt thiệt rồi, có tiền rồi. Số tiền bán trứng sẽ đưa Lài về lại dưới quê. Con Trâm thằng Đước rồi sẽ được cắp sách tung tăng trở lại trường. Anh Bần sẽ có một cái chân giả để mà lọc cọc đẩy hàng ra chợ, để mà đi phụ hồ phụ mộc loanh quanh trong xóm. Nếu còn dư chút đỉnh vốn… chỉ sợ là không dư chút nào, một nửa tiền công phải trả cho cò. Bà cò nói, có chuyến đi Thái Lan, nhưng chỉ tuyển tụi con gái mới lớn. Lài hai mươi tám tuổi rồi, lại hai mặt con nên không hy vọng gì trúng được mối ngon như vậy. Phải chi Lài còn trẻ, được đi sang Thái một lần là đủ tiền trang trải... Lài mơ tới cái tiệm bán đồ tạp hoá y chang như tiệm bà Tư Chẵn. Tiệm không cần lớn nhưng phải có một cái tủ lạnh bán đồ đông đá. Mấy tháng sống vật vạ trên thành phố vậy mà qua cái vèo, nhanh thiệt chớ. Xách giỏ đi lên rồi xách giỏ về, có sao đâu. Mà không biết… không biết còn ai… Hay là lo lót tiền cò để họ cho đi Thái… Cái tủ đá phải đặt ngay giữa tiệm, để khách khứa bước vô đều thấy. Nếu có mối, nếu bán… được lần nữa, nhất định Lài sẽ mua một cái tủ đông đá y như tủ bà Tư Chẵn. Phía bên trên là tấm kính kéo qua kéo lại, lau chùi sáng bóng, đồ hộp đông lạnh xếp gọn gàng thẳng thớm trong đó. Không biết còn ai muốn mướn Lài nuôi trứng nữa không. Ráng thêm lần nữa rồi nghỉ. Cơi rộng cái quán ra chút nữa. Mé bên này cái tủ kê bán gạo mắm, cá khô, khoai đậu. Mé bên kia bán tập vở, bút viết, bánh kẹo, giày dép. Lài nhìn lên trần nhà màu trắng, có cái quạt máy màu trắng quay mòng mòng, tự dưng buột miệng hỏi:

    - Trong bụng con người có mấy cái trứng?

    Bác sĩ rà cần siêu âm lên bụng Lài rồi ho khan một tiếng.

    Chiếc xe hơi trắng rề rề tấp vô cổng nhà thương đẩy mấy người bán rong dạt qua hai bên. Người đàn bà mở cửa xe ì ạch chui ra. Bàn tay có mấy cái móng sơn đỏ thận trọng ôm ngang bụng.
     
  4. Thiên Tốc Tinh

    Thiên Tốc Tinh Thần Tài

    Chảy Đi Sông Ơi
    Mai Văn Ro
    [​IMG]
    Tôi lẩn thẩn bước tới bước lui bên gốc cây bần già trên bờ con sông nhỏ. Con sông tuổi thơ và cây cầu nối đôi bờ… Bức họa đã vẽ xong. Một lá trúc vàng đã bị gió đẩy vô tình dán vào bức họa, ngay trên ngực áo của em. Bức họa nầy nó đã in sâu đậm trong tâm trí, tình cảm của tôi bao năm qua – cả thời trai trẻ và cả sau này nữa – tôi định sẽ không bao giờ vẽ nó ra để cho người khác thấy. Nhưng hôm nay, không rõ do đâu mà tôi không cưỡng được mình, nét bút cứ chảy ra và dường như máu tôi cũng chảy ra nữa. Bức họa này chỉ dành riêng, chỉ có giá trị đối với tôi và một người nữa. Vâng, một người nữa thôi.

    Dòng nước nhửng ròng lờ đờ ngầu đục, một con cá thòi lòi lẻ loi rẽ nước làm dạt mấy cánh bông bần tim tím. Phù sa quê hương cứ trôi ngược xuôi cho con sông bên lở bên bồi. Còn tôi? Cuộc đời tôi đã và đang trôi về đâu đây? Đâu rồi gốc dừa già nằm trườn trên mặt nước để lũ chúng tôi leo lên ngọn rồi co chân nhảy ra rơi tỏm xuống sông, đùa nghịch với nhau đến đỏ con mắt vào những buổi trưa hè.

    Đâu rồi chỗ em ngồi giặt áo não ruột câu ca dao…
    - Ngọc nè! Từ rày mình đừng đi học chung nữa nghen.
    - Sao vậy Dung?
    - Tụi bạn nó chọc…
    - Ừ… Nhưng, cho Ngọc ra đây nói chuyện với Dung.
    - Chi vậy. Mà chỉ khi nào có một mình Dung Ngọc mới được đến…

    Ánh mắt của người con gái ngày xưa và ánh mắt của người thiếu phụ bây giờ sao vẫn ngọt ngào, đầm ấm, có khác chăng ở người thiếu phụ là sự hờn trách kín đáo. Ông Giang Nam ơi, ông có bến nước cầu ao của ông, tôi cũng có chốn nầy để mỗi khi nhớ về lòng oặn thắt. Nhà thơ ôi, ông có cô bé cạnh nhà tôi cũng có Dung chờ đợi. Tình tôi cũng đẹp như thơ, như tranh… Tại sao tôi không chết? Không chết đi ở chiến trường để mãi mãi trong lòng em tôi là một người đàn ông? Khốn nạn thật. Tôi lang bạt kỳ hồ để cố quên em, để tránh né em và tránh né cả bản thân mình. Có cần như vậy không? “Bông bần này Dung ép vào vỡ lâu rồi, từ hồi mình còn học lớp 9. Hôm qua Dung đến chùa, Dung xin với phật cho anh cái bông bần này làm bùa hộ mệnh. Đi ít năm rồi về, Dung đợi…” Vài lần trong năm thi thoảng mới tạt về thăm cha mẹ già, không dám nhìn ra chốn xưa, bày trò say khướt với bạn bè để cố mà quên. Mày trốn đâu Ngọc ơi. Mày là thằng hèn. Tại sao mày không chết, như vậy có phải hơn không. Tại sao định mệnh không ban cho em hạnh phúc, yên ấm bên mái gia đình mà bắt em phải quá bụa khi tuổi thanh xuân tràn sức sống. Một cuộc sống bình thường, rất bình thường mà cả tôi và em cũng không có được…
    - Nghệ sỹ ngồi nhớ tình củ. Nỗi đau êm dịu, đẹp và lãng mạn. Ông vẽ…?
    - Đến hồi nào? Vào nhà đi. Ngọc cố tình lẫn tránh câu hỏi của Toàn.
    - Nảy giờ. Thôi, ngồi đây nói chuyện chơi. Tóc bạc gần hết rồi ông bạn.
    - Ngắp nghé năm mươi, tóc bạc có gì để nói.

    Ngày rồi đêm, tháng rồi năm, cứ thế qua đi, khi hồi tưởng lại ta cứ ngở như mới hôm qua, như mới đó. Hai người bạn cả thời thơ dại chung ghế nhà trường, cùng rượt còng nhịp ngoài bãi biển, cùng nướng khoai lang lùi, đốt lá dừa nước ở gốc dương trên nỏng cát bà ba Tầm. Lớn lên, hai người cùng nhập ngũ một ngày, cùng bồi hồi trong buổi tiển đưa, cùng là người lính chiến đấu trên đất Ăng co.
    Chiều buông, ráng đỏ hàng thốt nốt, hai đứa rưng rưng nhớ nhà. Ngọc thèm món canh chua cá ngát nấu với trái bần chín bao giờ cũng bát ngát mùi ngò ôm, nhớ tiếng cười sang sảng của ba khi thắng chú năm ván cờ tướng. Toàn thèm hương vị bánh canh tép lột má nấu, sáng sáng gánh ra bày bán ở ngã ba Đình cho những ngư dân nghèo tần tảo, ăn no dạ để vật lộn với sóng biển… Biết bao nhiêu là nhớ về cái xóm ven biển quê nhà, nghèo nhưng ấm áp tình làng nghĩa xóm. Và, nhớ nhất là nụ hôn đưa tiển của người yêu…

    Toàn hỏi: “Lúc bị thương, ông có nghĩ là sẽ chết trên đất bạn không?” “Vậy càng tốt”. “Nói điên”. Ngọc và Toàn hít thuốc lá, không gian tỉnh lặng.

    Mấy ngày sau mới hay Ngọc bị thương nặng, Toàn ngồi đứng không yên. Thương tích nặng tới mức nào đây? Rủi mà Ngọc… Toàn không dám nghĩ nữa. Ngọc có dáng dấp nho nhã, da trắng, mắt đen, thoạt nhìn giống những thằng lĩnh kiểng nhưng đánh giặc thì trí dũng có thừa. Nhớ lần đó, vào một buổi chiều Ngọc leo lên ngọn cây thốt nốt già quan sát, anh ta ngồi lì trên đó hàng tiếng đồng hồ. Lúc xuống, anh em hỏi có thấy gì không? Ngọc đáp: “Dòm mãi mà chẳng thấy bóng đám dừa xóm mình”. Cả bọn cười ồ. Tối lại, Ngọc rủ Toàn lén đi đánh, lối đánh của đặc công. Toàn hỏi: “Bộ mầy tức thằng Kha châm chọc rồi liều hả?” “Không liều, bảo đảm ăn chắc. Đánh cho thằng Kha phục nhưng lập công là chính. Đánh mà bỏ mạng thì ý nghĩa gì. Đi không tùy mầy”. Không ngờ Ngọc đã tính toán chính xác, chỉ tung có mấy trái lựu đạn diệt hơn chục tên Khơ – Me đỏ. Ngọc được xét thăng cấp trước niên hạn và được đề bạc làm tiểu đội trưởng. Thằng Kha ra mặt gọi Ngọc là đại ca…

    Toàn xin phép đơn vị đi thăm Ngọc. Từ nơi đóng quân của Toàn đến quân y viện không xa nhưng đường đi khó khăn, qua đèo qua suối hiểm nguy, bị đe dọa trước những mũi súng chui nhủi của đám tàn binh Pôn – Pốt. Đại đội trưởng bảo Toàn đợi tuần sau có chuyến cùng tháp tùng đi với gánh hậu cần. Toàn nóng lòng, không thể đợi đến tuần sau, nếu như ngộ lở Ngọc ra đi thì anh ân hận suốt đời. Toàn tha thiết xin tiểu đội trưởng cho anh đi, dấu không cho đại đội trưởng biết. Thương Toàn, tiểu đội trưởng đồng ý. Đến quân y viện, Toàn chết lặng khi thấy Ngọc cả người trắng xóa bông băng, một khúc chân bị mất, má hốc, môi khô thảm hại. Ngọc thì thào: “Nhớ đừng cho… gia đình và… Dung hay nghen”. Hơn hai mươi năm rồi mà nhớ lại Toàn thấy lòng nặng trỉu…
    - Tranh ông đoạt giải nhất và gởi triển lãm nước ngoài, nổi danh rồi nhé.
    - Danh vọng cái quái gì. Gởi niềm đau vào ngòi bút…
    - Sao hôm nay nói chuyện vớ vẫn vậy. Thất tình à? Bộ cô nhà thơ trẻ “bay” rồi hả?
    Cái chuyện cô nhà thơ trẻ, ngực lồ lộ sức sống, mặt tươi như sen đồng yêu đắm đuối cái ông (không phải ông), cái thằng (cũng không phải thằng) họa sĩ cà tàng lại bay về tới tận xóm biển xa xôi nầy rồi sao? Tội nghiệp cho nữ thi sĩ và cũng tội nghiệp cho cả thằng tôi.

    Anh có bay tít ngàn mây
    Trốn vào sắc màu biến tấu
    Anh cố trốn vào anh
    Em có cách đi tìm…”

    Thi sĩ ơi, tôi đã trốn gần như cả đời rồi. Tôi không trốn em và tôi sẽ không trốn ai hết. Có điều tôi không thể yêu em, không thể…
    - Hồi sáng trên đường về nhà mình gặp Dung. Ngọc nói vẽ xúc động.
    - Vậy à! Lâu nay gặp ông tôi không dám nhắc tới cô ấy, sợ chạm vào nổi đau. Ông nghe đây, cái hôm anh em mình xuất ngũ về, Dung ra huyện đội đón ông. Cô ấy đứng lặng lẽ trong góc sân, nhìn từng người bước xuống xe. Không thấy ông, cô ấy lùi lại, tay vịn vào thân cây bàn, cô khóc và dường như sắp ngã quỵ. Tôi bước lại, cô nhận ra tôi và chụp lấy tay tôi hỏi trong tiếng nấc: “Anh Ngọc đâu, tại sao anh ấy không về”… Chờ cho Dung bình tỉnh lại tôi mới nói thật là tôi chẳng biết ông ở đâu nhưng tôi cam đoan chắc chắn với cô ấy là ông chưa chết… Ông khiến tôi khó xử, không biết ăn nói sao với Dung và với hai bác nữa. Cũng may ít hôm sau ông gửi thơ về, nói là đã lấy vợ, một thời gian nữa ổn định cuộc sống mới về thăm quê. Dù biết rằng ông đã lập gia đình nhưng Dung vẫn chờ ông vài năm nữa. Hai người yêu nhau bao lâu thì tôi không rõ nhưng Dung chờ ông từ lúc ra đi đến khi lấy chồng hơn bảy năm. Ông ác quá.
    - Dù là bạn chí thân nhưng có những chuyện ông cũng không thể hiểu đâu.
    - Đúng. Tôi không hiểu nổi. Sau cái lần tôi đến thăm ở quân y viện, ông biệt tăm luôn. Ở trại điều dưỡng nào ông cũng không cho gia đình hay và cả tôi ông cũng giấu. Tưởng vì mặc cảm thương tật, tưởng rằng ông có cô y tá nên bận bịu gia đình. Tất cả do ông bịa và mọi người bị mắc lừa. Một thân một mình, lênh đênh đời họa sỹ, thành tài, nổi danh. Ông giỏi thật.
    - Tôi đã nói giỏi cái gì, danh vọng cái quái gì? Dẹp ba cái chuyện vặt ấy đi. Ông nói tiếp về Dung xem.
    - Theo tôi được biết, chồng Dung là một anh chàng tốt, đẹp trai hơn ông, chí thú làm ăn, lo lắng và thương yêu vợ. Cuộc sống của họ cũng khấm khá. Nhưng trời không chiều người, anh ta chết cùng hơn chục thủy thủ đi trên tàu đánh cá trong con bão biển tai ác, đến xác cũng tìm không thấy. Tội nghiệp Dung, số cô ấy khổ. Chồng chết nên cô ấy dọn về xóm mình mở tiệm may. Ông vẫn còn yêu Dung phải không?
    - Đúng. Nói chính xác là tôi luôn yêu Dung chứ có mất đâu mà còn. Giữa cô nhà thơ trẻ, có danh vọng, con nhà giàu có và Dung, bây giờ nếu có thể chọn, tôi sẽ chọn Dung. Tôi nói: “Nếu có thể…”

    Ánh trăng non yếu ớt xiên qua kẻ lá dừa nước. Tôi bước thấp bước cao men theo con đường nhỏ song song với dòng sông, tìm đến nơi ngày xưa tôi và Dung hò hẹn. Xa xa, tiếng chim bìm bịp kêu nước lớn nghe man mác buồn. Cũng tầm này đây, cũng như đêm nay, trăng non yếu ớt, gió thổi xào xạt đám lá ven sông. Bên gốc cây sao già, lần đầu tiên chúng tôi bồi hồi, run rẩy ôm hôn nhau trong vòng tay, ngập ngừng nói lời yêu và hứa chờ đợi nhau mãi mãi. Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng của mối tình duy nhứt. Vâng. Đối với tôi mãi mãi duy nhứt. Cảm giác ấy đã sống trong tôi, đi theo tôi khắp nơi trong suốt thời gian qua và có lẽ cho đến khi chết. Cái bông bần hộ mệnh, khô khóc cong queo không còn ra hình thù gì vẫn còn nằm trong túi áo của tôi có lẽ cũng linh nghiệm. Tôi vẫn sống và trở về. Chỉ có điều, chắc em quên không van vái cho cái thân thể tôi lành lặn. Cái mạng thì còn, cái thân thì mất… mất rồi…
    - Anh Ngọc. Em biết anh sẽ đến mà.
    - Em chắc vậy? Tôi không chút ngạc nhiên khi nghe tiếng em gọi. Tôi nghĩ có lẽ em sẽ đến, vì tôi biết em vẫn yêu tôi. Trong tình cảm của em tôi vẫn là Ngọc của những ngày mới lớn. Nhưng tôi lại mong em đừng đến dù chúng tôi không hề hẹn nhau.
    - Anh ngồi xuống đi. Nhớ chỗ anh ngồi không? Tôi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh em, đúng nơi mà xưa kia chúng tôi đã ngồi. Sau một lúc yên lặng, Dung chủ động nói:
    - Anh Ngọc, nhiều năm rồi em luôn mong mỏi gặp lại anh để được nghe chính anh nói rõ vì sao anh không trở về. Không hiểu sao em cứ mơ hồ có cái gì đó cản ngăn anh. Em biết anh không phải là hạng người bạc tình bạc nghĩa. Nhưng tại sao? Tại sao anh dối em, anh nói đi… Dung nắm chặt tay tôi và em khóc…
    - Biết nói gì với em đây. Dung…
    - Dù cho thế nào đi nữa, dù anh có bị trăm ngàn thương tật anh cũng về với em, em chờ anh khoắc khoải mà. Hay là anh khinh em? Anh có biết, anh đi rồi đêm nào em cũng cầu nguyện phật trời phù hộ cho anh. Anh có biết, nhận được lá thư nào của anh em cũng đọc đi đọc lại, em giữ nó trong ngực áo, sợ nhàu giấy, sợ nếp gấp làm nhòa nét chữ em ủi cho phẳng, đêm đêm lấy những lá thư gối đầu mới yên giấc. Sáng dậy sớm, đem giấu sợ mấy đứa em bắt gặp nó cười. Đây này, tất cả hãy còn nguyên vẹn. Sao anh bỏ em, sao anh không về, anh Ngọc…

    Trời ơi, những lời tâm sự của em như muôn ngàn con ong châm chích vào da thịt tôi nhức nhối. Tôi phải làm gì đây, nói với em như thế nào đây?...
    - Khi nhận được lá thư cuối cùng của anh sau hơn một năm vắng bặt, em mừng quýnh, vội chạy vào buồng đóng cửa lại. Mắt em hoa lên và em ngất lịm. Lúc tỉnh dậy, em xé tan nát nó ra, xé như xé tim mình. Em hận anh… Anh nói đi, do đâu mà anh phải dối em. Cô y tá nào đã tận tình chăm sóc cho anh, tình yêu nào, người vợ nào anh có?...

    Biết làm sao được Dung ơi! Đời anh bất hạnh hãy để một mình anh gánh chịu. Anh không cố nặn ra cô y ta tá hết lòng yêu anh, lo cho anh từng giọt sữa thì chẳng lẽ em phải chờ anh đến cả cuộc đời này? Anh cầu mong ngày tháng nguôi ngoai, em sẽ quên anh. Anh không dám về quê, đến khi hay tin em lấy chồng anh mới trở về thăm cha mẹ, bạn bè. Anh rất thèm gặp lại em dù chỉ một lần, nhưng không thể. Hết rồi, Dung ơi, tất cả đã hết rồi…
    - Em có chồng, mặc dù được anh ấy yêu thương nhưng tình cảm của em luôn trống vắng, em có lỗi với anh ấy. Em oán hận anh nhưng lại luôn nhớ về anh. Khi biết được anh bị thương tật và chưa hề có vợ em càng đau khổ hơn, cuộc sống buồn hiu, ra vào như cái bóng. Em có tội gì mà anh bắt em phải khổ, anh Ngọc, anh nói đi…

    Ngọc thấy đầu óc mình choáng váng, người nóng ran như lửa đốt. Ngọc đứng bật dậy trong vô thức, bước giật lùi và nói gần như hét:
    - Em biết để làm gì?... Được rồi, em nghe đây, nghe cho rõ đây: Anh không còn là thằng đàn ông, anh không chỉ bị cụt mất cái chân. Anh không còn là đàn ông, em hiểu không…
    Ngọc vấp phải rễ cây, ngã sóng soài trên cát. Sau thoáng chốc lặng người, Dung lao tới ôm chầm lấy Ngọc và họ khóc như chưa bao giờ được khóc.

    Cây sao già và con sông nhỏ đã từng chứng kiến những giọt nước mắt hồi hợp tiễn đưa và giờ đây lại chứng kiến nỗi đau của hai con người bất hạnh. Nước mắt người đời vẫn rơi và nước sông vô tình kia vẫn chảy…
     
    No MercY, Aprilia and Sân Mây like this.
  5. Thiên Tốc Tinh

    Thiên Tốc Tinh Thần Tài

    Họ là Đàn Bà
    Mai Văn Ro
    [​IMG]
    - Đi Tây, đi Tàu gì cũng không bằng nhà của mình. Sóng cứ tự nhiên nhé.
    - Không có ai ở nhà sao cô?
    - Không! Người thì ít lắm. Sóng tắm rửa, coi còn hạt bụi nào của Bangkok lẫn trốn ở nơi kín đáo thì loại bỏ nó đi. Cô giải quyết mớ công việc rồi mình tâm sự, ta còn nguyên buổi chiều nay. Mấy hôm rồi cô cháu ta bận quá nhiều việc, chưa có dịp hỏi chuyện riêng tư. Tắm xong đọc cái này chơi, nhân vật chính trong truyện giông giống cô đấy.

    Hai người đàn bà này mới gặp nhau chưa đầy một tuần lễ, một người ngoài ba mươi tuổi và một người ngoài năm mươi. Họ có vẻ hợp “gu” với nhau trong chuyến xuất ngoại này.
    - Hồi nảy Sóng hỏi cô nhà không có ai? Biệt thự này để dành cho cô trốn sự bon chen sau những toan tính vất vả nơi thương trường… Chồng con thế nào? Vừa nói, bà Dãn vừa nằm xuống cạnh bên Sóng trên chiếc giường nệm sang trọng trong một gian phòng rộng. Ngôi biệt thự của bà Dãn từ cây kiểng trong khuôn viên đến đồ vật trang trí nội thất, cái gì cũng đắc giá và bố trí hợp lí, nhìn vào người ta có thể thấy trình độ thẩm mỹ cao của chủ nhân.
    - Dạ, chồng đúng nghĩa thì chưa có. Chồng đã có và giờ không có. Con chưa có. Chưa biết bao giờ có, kể cả chồng và con.
    - Con bé này rắc rối nhỉ? Có dám nói hết cho cô nghe không? Phải biết Sóng độc thân cô mua tặng một bộ… Công nghệ làm giả này chất lượng cao lắm, bên Thái bày bán đầy, ở Việt Nam kín đáo hơn một chút. Đàn bà “không vàm” và cả đàn bà “có vàm” nữa bị các ông chồng bỏ bê đi tìm của lạ, “ông ăn chả, bà ăn nem” sợ mang tai tiếng, để giải quyết “sự sung sướng” họ chuộng thứ này lắm. Bà Dãn cười to và ôm chặt lấy Sóng. Một cử chỉ biểu cảm ít khi diễn ra đối với bà.
    - Cô bảo cô giông giống nhân vật Cần trong truyện ngắn “Đêm Đông”? Vậy thì buồn quá!
    - Ừ! - Bà Dãn thở dài - Thế hệ của cô nghèo đói phổ biến và số phận con người cũng vặt vẹo, gian truân…
    - Cô!...

    Không gian, thời gian trong gian phòng như chùn xuống. Hai người đàn bà ít khi cười này đang trôi ngược về cái vùng kỉ niệm mà họ cố quên nhưng không làm sao quên được… (Cô ơi, không chỉ có thế hệ cô đâu. Con đây này, mà không phải chỉ mình con, chúng con có khối đứa con gái chẳng những khổ mà còn đê tiện, nhơ nhớp và bất hạnh hơn nữa là mất đi mạng sống vì đồng tiền…)
    - Về cơ bản cô giống nhân vật Cần: Mười chín tuổi, cô bị cha ép lấy chồng giàu ở Mỹ Tho bỏ lại người yêu trong sự thù tức do bị vu oan. (Cha cô dựng lên chuyện anh ấy lấy trộm vàng nhà của cô. Chú ruột cô làm trưởng công an xã bắt nhốt, ép cung anh ấy. Thời kỳ chưa có luật lệ rõ ràng người bắt nhốt người không cần chứng cứ là chuyện thường. Cô bí mật gặp cán bộ công an huyện giải oan cho anh, nhà cô nghèo không đủ gạo ăn cho một lũ trẻ nheo nhóc thì làm gì có vàng). Rồi số phận đẩy đưa cô may mắn được nhà chồng trả tự do vì cô không thể sinh con nối dõi dòng tộc, họ lầm tưởng là cô vô sinh nhưng thật ra là con trai của họ. Họ cho cô số vốn, cô ra làm ăn và vươn lên như bây giờ, nhờ vậy mà cô cháu ta mới có cơ duyên gặp nhau. Cô khác Cần ở ba điểm: cha cô không còn sống để ân hận việc làm của mình như ba của Cần; Cô tự nói với người yêu việc cô không đủ dũng cảm đối đầu với sự thật đành phải hủy bỏ bàu thai của anh, (chứ không phải viết thư kể lại như Cần) kết quả của sự bồng bột, vụn trộm chỉ một lần ở gốc rơm ngoài đồng khi gặp lại sau hơn mười năm xa cách; và, cái đêm cô hẹn gặp anh ấy ở căn phòng ven sông có ánh trăng non thơ mộng chiếu qua khung cửa sổ, anh ấy không bỏ về như anh người yêu của Cần, anh ở lại với cô, đời người chỉ một đêm cô hạnh phúc, đằm thắm và sâu nặng để rồi cô có thằng Nhân Thiện, nó đang du học ở Xingapo…

    Cô Vãn ơi, con ước gì có được khoảnh khắc dám yêu và được dành cho người mình yêu cái quí nhất của đời con gái như cô để làm hành trang đẹp bước vào đường trần gian khốn nạn sau này. Hân, sao anh hèn yếu thế! Anh có biết em căm hận anh như thế nào khi bị gã đàn ông già nua đáng cha đáng chú ấy dày vò thân xác. Sao em lại để cho một tên ngu dại như anh ngự trị trái tim mình?…
    - Ăn hạt cơm nhà chồng đắng đến tận tim gan. Làm dâu nhà giàu họ coi cô còn thua con ở…
    - Cơm đắng nhưng dù sao vẫn là cơm sạch. Cô được cưới hỏi đưa đón đàng hoàng. Cô là con ở nhưng con ở của nhà chồng, chí ít cũng trên danh nghĩa. Còn con? Họ coi như con vật, bắt phải trần truồng soi mói, chọn lựa, mua bán ngã giá hẳn hoi. Nếu không vì gia đình quá đổi bất hạnh, có chất vàng ngập đầu, có chết con cũng không bao giờ chấp nhận. Nó ngắm nghía, sờ nắn con xong, nó gật đầu. Nó hỏi thằng môi giới bằng tiếng Anh “ Đảm bảo còn trinh không?” “Đảm bảo” “Hai mươi ngàn…?”

    “Chắc Hân rất khinh Sóng khi biết Sóng phải bán thân?” “Không! Hân khinh và hận bản thân mình. Trẻ quá, lúc đó Hân chưa đủ bản lĩnh đàn ông. Giá như bây giờ thì Hân thề dù phải chết Hân cũng không để Sóng ra đi”. Hân nói đúng, Hân trẻ và nhát gan, đến tiếng yêu cũng không dám nói. Hân biết Sóng yêu Hân. Hân biết rõ trái tim mình đã gởi trọn cho Sóng. Hân biết rõ hoàn cảnh của Sóng. Hân không dám làm gì hết trong điều kiện Hân có thể làm được. Và, Hân ân hận, rất ân hận…. Cơn bão dữ đã nhấn chìm cha Sóng ngoài biển khơi. Cơn bảo dữ đã tàn phá tang hoang cả xóm dân chài. Từ chỗ gia đình khá giả, có ghe đánh bắt xa bờ, nhà cửa khang trang, chưa đầy một giờ đồng hồ mất hết. Mất tất cả. Tệ hại hơn, khi căn nhà sập đổ mẹ Sóng bị gãy cả hai chân, em trai Sóng mới hơn mười tuổi bị chấn thương sọ não. Anh rễ Sóng theo cha đi biễn mãi mãi không về để lại người chị đang ôm con nhỏ. Tương lai sáng sủa đang mở ra trước mắt Sóng khi cô học đại học kinh tế năm thứ ba đang về quê nghỉ hè thì xảy ra sự cố. Tất cả, tất cả tan biến hết. Sóng bảo Ngọn: “Chị ở nhà ráng chăm sóc mẹ, nuôi cháu, lo cho em Dâng. Em hứa không quá năm năm em sẽ trở về”. Sóng thừa hưởng tính cách mạnh mẽ của người cha, dân ở đầu sóng ngọn gió nên từ bé Sóng rất có ý chí, quyết đoán, thông minh, sâu sắc nhưng kín đáo. Sóng tự cho mình cái quyền và trách nhiệm cứu cánh gia đình. Sóng tự thấy chỉ có mình mới gầy dựng lại được một gia đình từ đống đổ nát. Rồi Sóng quyết ra đi… Sóng là vậy, sao Hân có thể xem thường được chứ. “ Sóng đừng tự cho là mình bán thân có được không? Bây giờ lấy chồng ngoại là chuyện thường mà” “Sóng không thích che đậy, một khi đã nói thì nói đúng bản chất của sự việc”. “Sóng có đồng ý cho Hân thường tới thăm không?” “Đó là quyền của Hân, Sóng không cản. Nhưng mà, hồi trước Hân đã không dám nói yêu Sóng và bây giờ cũng không được nói, hiểu chưa? Cưới vợ đi để có người phụ quản lý gia sản, phụ lo việc kinh doanh. Có một chuyện, khi nào thật cần thiết Sóng sẽ kể cho Hân nghe. Nghe xong chuyện ấy, chắc chắn Hân sẽ không bao giờ gặp Sóng. Thôi về đi...”
    - Sau đêm gặp nhau để cô có được thằng Nhân Thiện, cô và chú đưa ra một qui ước đau lòng là không thông tin và liên lạc nữa dù chỉ một lần. Vì sao à? Mọi việc không còn cứu vãn được, chú ấy còn trách nhiệm với một gia đình. Đến giờ Thiện vẫn chưa được gặp cha.
    - Cô định…
    - Không, ngày cưới của Thiện chắc chắn cha con họ sẽ đoàn tụ, cô đã tính trước chuyện này rồi. Sau cha thằng Thiện, sau người chồng ở Mỹ Tho, cô còn một người đàn ông nữa. Nói yêu đương thì không đúng, gá nghĩa để chia sẻ, để nương tựa nhau thì đúng hơn. Đó – bà Dãn chỉ tay lên tấm ảnh một người trung niên, gương mặt cương nghị treo trên tường – Người đàn ông thứ ba của cô đó. Thiên mệnh định sẵn cô không sở hữu được người khác giới. Hai người trước xa nhưng còn. Người thứ ba dễ mến sau này xa và mất. Ông ấy bị tai nạn giao thông bỏ lại biết bao công việc dở dang và bỏ lại cô. Ông ấy đi rồi ngôi biệt thự này trống trải, đơn điệu và buồn. Cô đã nói lúc trưa, “người thì ít lắm” là vậy.

    Sóng nắm chặt lấy bàn tay bà Dãn. Họ khẻ bậm môi. Đối với họ, để cho rơi nước mắt chắc là điều khó. Sóng giả vờ thiếp đi…

    “ Sóng bỏ đi, không có thông tin gì về Sóng, Hân đau lắm…” “Bộ định khóc hả. Sóng không dễ chết vậy đâu? Hẹn năm năm nữa Sóng sẽ hợp tác làm ăn với ông bà Hân” Câu nói vừa trêu và vừa có ý nhắc khéo Hân nên cưới vợ lúc Sóng mới trở về nhưng được Hân hiểu theo chiều khác. Năm năm Sóng đi xa; mười năm Sóng về quê mở công ty xuất khẩu hải sản, Hân vẫn chưa lấy vợ. Cô Dãn ơi, cô và chú ấy không cứu vãn được vì chú ấy có trách nhiệm với một gia đình. Còn con, Con và Hân?...Hân bảo: “Sóng nhớ lời hứa năm năm trước không?” “Sóng nói hợp tác làm ăn với ông bà Hân? Bà đâu?” Năm năm sau nữa, Hân lại bảo: “Năm năm lần thứ hai rồi, hợp tác chứ?” Cô Dãn ơi, chắc lúc cô đến với chú trên tường kia tâm hồn cô đã bình yên và thanh thản. Cô đã tìm được người để thủ thỉ chuyện đời, chuyện người, chuyện làm ăn. Còn con, quá khứ là một vết nhơ đậm cả đời không thể nào gội rửa. Sau vết nhơ là tội ác, con đã trả thù cay độc người đàn ông dám ngã giá mua cuộc đời con. Con hiểu Hân, một con người tuy có chút nhúc nhát nhưng tốt bụng, dám yêu, dám đợi. Khoảng thời gian Sóng bị bán sang Đài Loan, Sóng căn dặn chị Ngọn không tiết lộ bất cứ thông tin gì về mình cho Hân biết. Hân vẫn thường xuyên lui tới gia đình thăm hỏi mẹ, chơi với thằng Dâng, mặc dù em nó khi quên, khi nhớ. “Lúc Sóng đi, mình vừa sợ Sóng không về lại vừa tin Sóng sẽ về. Và mình đợi…” “Đợi cái gì? Mình có nói yêu Hân đâu? Mình nhắc lại, cho đến giờ này Hân cũng chưa hiểu nhiều về Sóng. Thôi đi, vương vấn mà làm gì…?”. “Anh ba. Anh ba đến rồi”. Từ nhà sau, Dâng chạy ào lại ôm chầm lấy Hân. Dâng đã lớn nhưng do dư chấn nảo nên xử sự như trẻ con. Nhìn em, thương em, nhiều lúc Sóng ước nếu như có phép màu Sóng sẵn sàng hoán đổi vị trí cho đứa em tội nghiệp kia. “Hân này, sau Dâng gọi anh ba?” “Ai biết? Sóng hỏi Dâng xem…”

    Công ty “Ngọn Sóng” mua bán hàng hải sản của cô Sóng làm ăn mấy năm đã vươn ra thị trường ngoại quốc, phần lớn là xuất sang châu Âu. Là doanh nhân thành đạt nên được nhà nước mời tham quan, học hỏi cung cách làm ăn của nước ngoài và may mắn lần này Sóng đã gặp được cô Dãn, một người có thể coi là tri âm, đồng điệu. Từ cái nhìn thiếu thiện cảm ban đầu do định kiến của bà con xóm giềng, của chính quyền địa phương thì nay, dần dần nhiều người nhìn cô Sóng với con mắt thán phục. Tài năng và lòng tốt của cô Sóng làm cho người ta quên đi cái quá khứ đau thương của gia đình Cô. Với Sóng thì không! Cô không thể quên cơn bão biển làm gia đình tan nát. Cô càng không thể quên cái ngày mà cô bán thân cho gã lùn, già nua nhưng nhiều tiền, và khoảng thời gian dài dằng dặc cô sống dật dờ trên đất khách. Cái ngày mà từ một cô gái trong sáng như pha lê bị vùi dập trở thành một thứ đồ chơi nhơ nhớp, nó khắc vào tim óc, vào da thịt, vào xương cốt, vào máu và nước mắt của Sóng. Mỗi năm đến cái ngày tồi tệ đó cô đều tự tổ chức cúng tế bản thân mình. Sóng thắp hai mươi mốt cây nhang, hai mươi mốt ngọn nến, có tấm ảnh được chụp từ lúc Sóng hai mươi mốt tuổi, có hai mươi mốt bông huệ trắng, có thức ăn, trái cây và rượu. Tất cả bày biện như người ta cúng giỗ người đã khuất. Khách mời chỉ có Hân. Sóng qui định, hai người uống mỗi người hai ly rượu, không hỏi, không nói gì hết, nữa tiếng đồng hồ thì Hân phải về. Mười một lần rồi như vậy. Lần này thì: “Hân còn nhớ Sóng bảo có câu chuyện mà khi nghe xong, Hân sẽ không bao giờ gặp Sóng?” “Nhớ!” “Nhớ sao không hỏi Sóng dù chỉ một lần?” “Sóng đã nói khi nào thật cần thiết …” “Ừ nhỉ. Sóng sẽ nói. Chúng ta một người nói, một người nghe và cùng uống rượu cho đến khi hết chuyện chứ không theo qui định chỉ hai ly như trước đây. Có thể hôm nay chúng ta sẽ say. Không sao, nếu say và sáng mai Sóng không dậy nữa thì càng tốt. Hân nghe, nhận biết thiếu logic hoặc có gì chưa kịp hiểu thì về nhà nghiệm lại, Hân đừng hỏi thêm bớt. Hết chuyện, Hân về, nếu muốn gặp Sóng thì ít nhất phải sau sáu tháng!... Hân có biết, họ đồng ý mua Sóng với giá 30.000USD. Đắt quá phải không? Đúng vậy, ở thời buổi năm bảy chục đô người ta có thể mua được trinh tiết, năm bảy trăm đô người ta có thể mua đàn bà, con gái bán đi, bán lại kiếm lời. Ngoài các điều kiện ràng buộc khi về bên Đài Loan, họ còn buộc Sóng cam kết nếu không còn là con gái thì chỉ nhận 1/5 số tiền. Để có được cái giá mà không mấy người chịu bỏ ra mua cái gọi là vợ, Sóng phải bỏ tiền, bỏ công hàng tháng trời để tìm hiểu và lần ra đường dây mua vợ hạng sang, đồng ý cho bọn người môi giới 20% nếu công việc hoàn thành. Riêng họ nhận phía bên kia bao nhiêu tiền thì tùy. Họ phải có trách nhiệm cung cấp thông tin về các đối tác để Sóng tìm hiểu. Giá cả sẽ do Sóng tự thương lượng trực tiếp với người mua. (Tất nhiên bọn môi giới luôn ủng hộ giá cao để họ hưởng lợi nên họ không tiếc lời ca tụng, tâng bốc, đưa Sóng lên tận mây xanh) Sóng thạo ngoại ngữ nên giao tiếp những kẻ mua người một cách dễ dàng. Họ thì chăm bẳm, soi mói thân thể của Sóng để lựa chọn. Sóng thì cũng chăm bẳm, soi mói khả năng tài chính và sức khỏe của đối tác. Tiêu chuẩn Sóng đặt ra: Giàu, già, sức khỏe kém. Bằng đầu mày chót lưỡi của con gái, bằng vốn tiếng Anh lưu loát của mình, Sóng mau chóng nhận ra con mồi đạt tiêu chuẩn và trao đổi trực tiếp với hắn ta. Sóng hẹn gặp riêng ông ta nhiều lần, Sóng thủ thỉ tình cảnh khốn khó của gia đình, thủ thỉ chuyện tình cảm yêu thương và ơn nghĩa, nếu được ông ta giúp đỡ sẽ tận tâm chăm sóc suốt đời… Chuyện gì Sóng cũng có thể bịa ra miển sao làm vừa lòng hắn. Cuối cùng hắn tin, chìu chuộng và xem Sóng như bảo bối. Có đê tiện không? Hân! Chưa đâu, đó mới là khúc dạo đầu. Này nhé: đi đứng Sóng luôn nép sát vào và ôm tay ông ta; ngồi Sóng luôn ngồi cạnh ông ta nếu có điều kiện thì hơi lùi về sau một chút; cà phê đậm và ngọt như vậy vừa ý mình chưa? Ăn thêm đi mình, ăn cho có sức khỏe, vừa múc bón thức ăn cho ông ta Sóng còn khích lệ bằng đôi mắt… Hân uống đi - Sóng cầm ly rượu đưa cho Hân trong lúc Hân đờ người ra như kẻ mất hồn - Ráng mà nghe cho hết thủ đoạn trả thù của đàn bà… Sóng luôn tạo mọi điều kiện, tận dụng mọi cơ hội để phá hoại cái xác thân già cỗi của hắn. Vào phòng thì bất kể ở nhà riêng hay ở khách sạn, bất kể ngày hay đêm, bằng mánh khóe gợi dục, bằng sức lực của đứa con gái mới lớn, Sóng làm cho hắn điên đảo, đê mê, cạn kiệt dần. Tùy vào từng hoàn cảnh sinh hoạt cụ thể, trong đồ ăn, thức uống của hắn Sóng bí mật bón thuốc kích dục vào, liều lượng thì luôn có sự tính toán chi li. Sóng bỏ công nghiên cứu rất kỷ nhiều nguồn thông tin về tình dục, nghiên cứu sâu về thuốc kích dục và cách sử dụng hiệu quả. Sóng tìm mọi cách có thể làm cho hắn hao mòn dần sức khỏe mà chính hắn và người khác cũng không phát hiện, làm cho hắn bước từ từ vào cõi chết trong sự đam mê. Kế hoạch hoàn hảo và người thực hiện cũng hoàn hảo. Hơn bốn năm sau hắn ra đi vĩnh viễn khi đã kịp chia tài sản và Sóng có một phần…”
    - Cô biết cháu không ngủ. Cuộc đời ai mà chẳng có nỗi niềm riêng. Cái gì bỏ qua được thì bỏ qua. Thôi dậy đi, cô cháu mình đi shopping.

    Sóng vận bộ váy phớt hồng phù hợp với làn da trắng ngần, phơi bày khéo léo cái thân thể đang ở độ tuổi sung mãn của đàn bà khiến bà Dãn dán mắt vào trầm trồ khen ngợi.
    - À này, cháu có muốn gặp ông nhà văn tỉnh lẻ viết truyện ngắn “Đêm đông” không?
    - Được không cô?
    - Được chứ! Cô sẽ mời ổng ăn cơm chiều. Chuyện cô làm quen với ổng vui lắm. Trong suy nghĩ của cô, mấy ông nhà thơ, nhà văn chả biết làm ăn con khỉ gì và nghèo kiết xác. Cô tưởng tượng ra nhiều cách để giúp đỡ ông ta, cô tự gán cho mình cái trách nhiệm này. Cháu biết đấy, tiền thì có thể mấy ổng không có nhưng tự trọng, tự ái nữa có thừa. Lần đầu đến nhà, cô mới té ngửa ra, ông ta rất giàu. Khi độ quen đến mức cho phép, cô hỏi, ông ấy trả lời: “Trời cho chứ tôi có biết làm ăn gì đâu. Bữa đó sỉn, mới lĩnh lương vớ một cộc vé số, nếu tỉnh rượu vợ biểu (chứ cở như trời biểu thì không ăn nhằm) tôi cũng không dám liều…”.

    Có tiếng kèn xe hơi vang lên ngoài cổng…
     
    No MercY, Aprilia and Sân Mây like this.
  6. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 2 others like this.
  7. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 2 others like this.
  8. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khi người ta trẻ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Công Duy[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vâng, khi trẻ, người ta có lúc làm điều dại dột mà không hề suy nghĩ. Đến khi già, người ta ngoảnh lại ... và lúc đó, mọi sự ân hận hay cứu chuộc đều đã muộn. Muộn như chuyện tôi và em bây giờ.
    Hảo, bây giờ em vẫn một mình, một cô gái ở vậy với tuổi năm mươi . Em tự do như con chim trời, nhưng còn tôi ... Tôi đã là một gã trai già tóc bạc, nối trên lưng tôi là vợ và con. Và tôi chỉ còn biết viết những dòng này để tạ lỗi cùng em thôi, Hảo ạ!
    Trở về thời xa xưa lắm, tôi là thằng con trai mới lớn, về quê chơi ở vùng Long An. Cha mẹ đã nhắm sẵn cho tôi với em, cô bé Út Hảo, chỉ mới mười sáu tuổi . Chuyện người lớn làm cho tuổi trẻ chúng mình e ấp. Em mặc áo dài, má đỏ ửng ra chào tôi, tôi nhìn xuống gấu áo, cảm thấy hai tay mình như thừa thải ... Đêm trăng, tôi qua nhà đánh cờ tướng cùng ba em, nồi chè khuya em nấu ăn sao ngọt lịm. Tôi say em như say men rượu tình đầu mà tình chúng mình nào có gì, chỉ đôi lần nhìn trộm hoặc đi ngang vờ đụng, để nắm tay . Không có hội làng như thơ Nguyễn Bính, không có khung cửi, vườn dâu ..., chỉ có bà ngoại và cô của em bỗng dưng đem tuổi anh, em ra tính toán và la hoảng: "Khắc, xung...". Từ bữa đó, em tránh mặt anh, mắt buồn sưng mọng nước... Anh thì vẫn hồn nhiên đến tìm gặp em, đến hoài, đến mãi ... cho đến lúc bị bà ngoại em nhổ nước cốt trầu trước mặt, cô em sập cửa rào khi thấy bóng của anh. Anh giận, đòi bỏ đi xa, em lẳng lặng gửi quà, tấm khăn thêu và đôi dòng đưa tiễn, em sợ "áo mặc sao qua khỏi đầu".
    Tôi đã đi xa, thành thị làm tôi quên em, việc học làm tôi bù đầu . Tôi đã gặp nhiều cô gái, một trong những cô ấy là vợ tôi bây giờ. Tôi không muốn tìm về Hảo, cho dù gặp lại em như trở bàn tay . Tôi biết những người thân của em lần lượt ra đi, tôi biết những cấm đoán hồi ấy chỉ là những trò vụn vặt, nếu như tôi còn có em trong tim... Lỗi của tôi, thằng người ích kỷ, tự ái .
    Tôi gặp em giữa thành phố bụi bặm và bề bộn. Nông thôn đô thị hóa, đất hóa vàng, con người thi nhau bán, lễ giáo được cân đong, đo đếm theo dream, cub, video và karaoke . Hảo không có ý tìm tôi, tất cả đã thành dĩ vãng, đã quá muộn rồi . Em ở vậy, không kết se duyên mới để hòng sửa chửa những khe khắt của gia đình, em muốn chuộc lỗi với tôi . Em nào biết tôi vô tình lắm Hảo ơi . Tôi nào nhớ em, tôi đã cưới vợ, tôi quên em rất lâu rồi .
    Mai em về lại Long An, tôi thì phải chở vợ tôi đi làm. Vợ anh tinh mắt lắm, cô ấy hỏi chuyện anh về em và cười nhẹ, ghen chi với quá khứ, anh nhỉ. Cô ấy hiền và thương anh. Anh ngày xưa cũng đã từng rất thương em, nhưng đã xa quá rồi, Hảo ơi ...

    Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng,
    Em chở mùa hè của tôi đi đâu
    Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám
    Thuở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu ...
    [/FONT]
     
    No MercY, Aprilia and Sân Mây like this.
  9. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khí chất đàn Ông[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Võ Khắc Nghiêm[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cuộc đời ai chẳng có nỗi đau, tưởng thời gian sẽ làm ta nguôi ngoai. Nhưng bất chợt có một sự việc nào đó, một khoảnh khắc vô tình nào đó kỷ niệm bỗng ập đến như thác lũ, nỗi đau lại trào dâng và có khi dẫn đến những đột biến quan trọng của cả đời người. Với Liên hôm nay là một ngày như thế. Buổi sáng nàng dậy sớm tập chạy và thấy đau ở ngực, đi khám bác sĩ bảo không việc gì, có thể vì tập thể thao quá sức. Trưa nàng rẽ qua Tràng Tiền mua mấy vỉ thuốc. Ngồi trên xe máy chờ đèn tín hiệu ở ngã tư, tình cờ Liên đọc tấm panô lớn "Triển lãm tranh vùng Than". Lâu lắm rồi Liên không sờ đến bút vẽ, cũng không bận tâm đến bất kỳ triển lãm mỹ thuật nào, vậy mà hôm nay, như có sức mạnh vô hình khiến nàng phải bước vào phòng tranh này. Liên hết sức ngạc nhiên thán phục trước những bức sơn dầu, sơn mài, về biển, về nhịp sống công nghiệp với góc nhìn lạ và những gam mầu mạnh, đầy ấn tượng. Nàng bỏ qua phần tranh chân dung, đứng lùi xa ngắm nhìn bức sơn dầu khổ lớn Chiều Bái Tử Long với ráng đỏ cuối chân trời cuồn cuộn mây ngũ sắc vờn trên những dãy đảo tím. Tiền cảnh bên trái là nhà sàng, bến than. Tiền cảnh bên phải là vợ chồng người thợ mỏ sau giờ tan tầm, cõng con trên vai, thanh thản bước đi. Liên nhấc cặp kính đổi mầu, lau mắt. Nàng cố giữ bình tĩnh khi nhận ra gương mặt chữ điền quen thuộc của Nội và cả gương mặt của chính Liên trên bức tranh. Rồi cả thằng bé bụ bẫm toe toét cười trên vai bố, sao mà giống thằng Long con trai Liên đến thế!

    Liên tiến sát lại bức tranh, cúi đầu tìm cái tên tác giả: Trời ơi, Lê Hải vẽ đẹp thế này ư? Mà cũng chỉ có Hải mới lưu lại hình ảnh của Nội, của Liên trong tác phẩm của mình thôi. Nghe nói bây giờ Lê Hải đã là đội trưởng một đội xe lớn. Liên chớp mắt nhớ đến những lời tỏ tình vụng về của Hải, nàng tìm gặp cô nhân viên trông coi phòng tranh:

    - Tôi muốn mua bức tranh này!

    - Chị không đọc thấy dòng chữ "Tranh không bán" à?

    - Tôi muốn gặp tác giả.

    - Các tác giả đang bận sản xuất, chỉ gửi tranh trưng bày thôi.

    Liên ngắm kỹ bức tranh một lần nữa và nhủ thầrn: "Nhất định ta phải mua bằng được".

    Nàng trở về nhà quá muộn. Chồng nàng đang nghỉ trưa. Cô giúp việc thì thầm vào tai Liên: "Ông chủ vừa cho thay tủ gương, đánh vỡ mất bộ ly và hòn than mầu".

    - Trời ơi, người ta cố tình đập vỡ đấy! - Liên quỵ xuống ghế, mặt đầm đìa mồ hôi, ngực đau thắt. Cả nhà cuống lên. Ông chủ từ trên gác lạch bạch chạy xuống, mặt xị ra, vẻ ngái ngủ:

    - Em làm sao thế?

    Thấy vợ ngồi như pho tượng, mắt trân trân nhìn chiếc tủ mới, viền sơn xanh lòe loẹt, ông chủ lắc đầu, giọng nǎn nỉ:

    - Anh xin lỗi đã vô ý làm vỡ hòn than mầu của em. Anh sẽ tìm cho em một hòn than mầu khác. Có đáng gì đâu. Đến kim cương, đá đỏ anh còn tìm được, huống gì... - Liên im lặng, cố nuốt những ý nghĩ trong đầu: tôi biết anh có thể làm bất cứ điều gì anh muốn. Nhưng có những thứ không thể mua được. Có những sắc mầu không nhìn thấy được. Nhất là khi nó đã trở thành kỷ vật thiêng liêng. Liên muốn gào thật to, nhưng cổ họng nàng như bị chèn cứng và nước mắt trào ra. Chẳng ai hiểu được nỗi đau và sự nhẫn nhục của Liên, chẳng ai chia sẻ được với nàng, cái gia đình này thường vẫn xảy ra những xung đột lớn, nhưng Liên đã cố nhịn. Nhịn mãi thành u uất và nỗi dày vò đổ thành bệnh...

    *

    Sinh ra trong gia đình nông dân ở một huyện nghèo của tỉnh Thái Bình, bố đi đánh Mỹ hy sinh ở chiến trường, một mình mẹ lam lũ nuôi chị em Liên. May nhờ có ông bác dạy ở trường Mỹ thuật Công nghiệp kèrn cặp, Liên đã thi đỗ khá thuận lợi và tỏ ra có nǎng khiếu hội họa. Với vóc dáng cân đối, có gương mặt trái xoan, cặp mắt biết cười và giọng nói nhỏ nhẹ, lễ phép, Liên được nhiều người quý mến. Nhờ tủ sách đồ sộ của nhà ông bác mà Liên mở rộng được kiến thức khá nhanh và biết cách giao tiếp lịch sự. Vốn bản tính thật thà, sống giản dị và có lòng trắc ẩn, thương người, Liên được nhiều chàng trai quan tâm, sǎn đón. Nhưng phải đến ngày sắp ra trường, tình yêu mới thực sự đóng dấu ấn vào trái tim nàng. Đó là một mùa hè đẹp nhất trong cuộc đời Liên.

    Buổi đầu về thực tập ở vùng mỏ, Liên bị hút hồn bởi những sản phẩm mỹ nghệ đẽo gọt cầu kỳ từ than đá. Hồi ấy chưa có các hiệu bán đại trà thứ hàng này nên Liên phải hỏi thǎm anh Hải lái xe chở than ở cạnh nhà khách xí nghiệp. Hải cười hỏi:

    - Cô mua sư tử than loại nào? To như con chó, con mèo hay bằng con chuột, tôi sẽ mang về cho. Cậu Nội bạn tôi chuyên nghề đẽo than, khéo tay lắm.

    - Nhà anh Nội có ở gần đây không ạ?

    - Cũng không xa lắm! Để đến chiều, chở than ra bến, tôi sẽ cho cô đi nhờ, tiện thể chở cho cậu ấy mấy tảng than không có thớ mới tìm được.

    Nhà Nội nằm ở lưng chừng đồi, phải đi bộ qua một thung lũng có con suối nhỏ. Ngôi nhà hai gian xây bằng gạch xỉ lợp ngói, nền xếp ngổn ngang những tảng than mới được đẽo thô. Nội đang đánh bóng một con sư tử lớn.

    - Con này của một bà Việt kiều đặt, cứ đòi lấy ngay cho kịp chuyến bay tối mai. Lại còn bắt đóng hộp gỗ đệm mút xung quanh nữa kia! - Nội vẫn mải miết đánh bóng, không ngẩng đầu lên. Hải kéo bao tải than vào góc hiên:

    - Vội gì thì cũng phải ngừng tay tiếp khách một chút đã chứ!

    - Cậu pha nước hộ mình đi, chè xanh bà cụ vừa đun đấy! Nào, cô bạn cần gì?

    - Dạ, em muốn mua một con sư tử nhỏ thôi.

    - Để chơi hay làm quà tặng?

    - Ông anh rể em đang học ở Nga, muốn có một món quà tặng cô giáo.

    - Loại nhỏ thì có sẵn rồi. Cô mở tủ mà xem.

    Thấy Liên luỡng lự, Hải liền mở cánh tủ gỗ thông. Nắng chiều hắt vào những chú sư tử đen bóng với nhiều dáng điệu khác nhau trông thật vui mắt. Liên thực sự sững sờ khi nhìn thấy một tảng than khá lớn lấp lánh đủ sắc mầu có hình thù tựa một tháp chàm trông thật huyền ảo.

    - Sao lại có loại than mầu đẹp thế anh?

    Liên thảng thốt hỏi, tay mân mê những góc cạnh của tảng than.

    - Cẩn thận! Loại than này rơi là vỡ vụn đấy! Nó không đẽo gọt được.

    - Tìm loại than mầu này có khó không anh?

    - Những hòn nhỏ thì cũng dễ tìm thôi nhưng một tảng lớn như thế này thì hiếm lắm! Này, cô ưng con sư tử nào thì chọn đi. - Hải nói và đi ra vườn hái chè xanh với bà Don, mẹ Nội. Liên chọn con sư tử đang đặt chân phải lên một quả cầu, đầu ngẩng cao, đuôi vắt ngược lên khá ngộ nghĩnh.

    Liên hỏi giá tiền. Lúc này Nội mới đứng lên, ngắm nhìn Liên, cười:

    - Cô là sinh viên mỹ thuật à?

    - Mỹ thuật công nghiệp ạ!

    - Càng tốt!

    - Sao lại tốt?

    - À thứ mỹ thuật này cần cho người công nhân. Đúng không nào?

    - Theo anh thì thứ mỹ thuật nào không cần cho người công nhân?

    - À... - Nội gãi đầu. - Cũng có đấy! Có những thứ mỹ thuật mà người công nhân không hiểu được và cũng chẳng đủ tiền mà chơi... - Nội cười vơ chiếc điếu cày dài ngoằng rít một hơi dài, ngửa mặt phả khỏi mù mịt. Thấy Liên ho, bà Don chép miệng thở dài: "Cái thằng đến là vô ý, vô tứ".

    - Cô dị ứng với khói thuốc lào à? Hải trở lại và kéo tay: - Nào, ta về thôi chứ!

    - Để em gửi tiền đã.

    - Cô là bạn của Lê Hải thì lấy gì ở đây cũng không phải trả tiền. - Nội đá vào bao tải than. - Đấy cô xem nó khuân cho tôi bao nhiêu là than mà có đòi xu nào đâu. Thứ bảy một chầu bia là xong.

    Thấy Liên tần ngần, Nội giục:

    - Hải đưa người đẹp về đi kẻo muộn rồi. Bận sau cô mua nữa tôi lấy tiền một thể.

    - Vậy em cảm ơn anh! Cháu chào bác ạ!

    Bà Don nhìn theo Liên với vẻ trìu mến:

    - Cháu về nhé! Bận sau đến bác luộc ngô cho mà ǎn!

    - Vâng ạ! Cháu thích uống nước ngô lắm!

    Trên đường về Hải nói với Liên rằng từ nhỏ Hải và Nội đã say mê học vẽ, học nhạc nhưng không có điều kiện phát triển. Hải kể cho Liên nghe nhiều chuyện hào hiệp về Nội. Đó là một chàng trai thông minh, tháo vát, sẵn sàng đi thông liền ba ca thay cho bạn nhưng vẫn ghi công để bạn không mất điểm thi đua. Bố Nội là một thợ điện giỏi, một pháo thủ xuất sắc của đại đội tự vệ nhà sàng, đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang. Ông đã hy sinh trong một đêm đi cứu người bị sập hầm, chẳng may vấp phải bom bi. Mẹ Nội cũng là chiến sĩ tự vệ ở nhà sàng. Bà được nghỉ hưu sớm vì bệnh bụi phổi. Nội có cô em gái tên là Thương khá xinh, đang theo học kế toán ở Bắc Ninh. Xem ra anh chàng Hải đã phải lòng cô em của Nội nên hết lời ca ngợi Thương. Nào là nước da trắng như vỏ trứng gà, cao một mét sáu hai, tóc dài, mắt một mí như gái Nhật.

    Liên không bận tâm lắm đến cô em gái Nội bởi chưa hề gặp mặt, nhưng tính cách của Nội khiến Liên cảm thấy thích, nó mạnh mẽ, hoàn toàn khác với những cậu ấm đang đeo bám Liên.

    Dường như có trời xui khiến, con sư tử than chưa kịp gửi đi đã bị rơi vỡ khi mấy đứa bạn cùng lớp giằng xem.

    Hôm sau vừa thấy Liên trở lại, Nội đã toét miệng cười:

    - Lại vỡ mất rồi phải không?

    - Vâng ạ! - Liên đỏ mặt đáp.

    - Hôm qua cô về rồi, mẹ tôi mới trách: sao không cho cô cái hộp gỗ.

    - Dạ, em cũng đã kiếm được hộp các tông và mấy miếng xốp nhưng chưa kịp cho vào, chúng nó tranh nhau xem và tuột tay. Có gán lại được không ạ?

    - Vứt đi tôi cho cô con khác. Đang đánh bóng đây, đẹp hơn nhiều! Mẹ ơi, ngô luộc được chưa, mang lên đãi khách đi.

    - Có ngay đây! - Như đã chờ đợi Liên, bà Don bê lên rổ ngô luộc còn bốc khói và chiếc ấm tráng men đựng nước ngô - Mẹ con tôi vừa nhắc đến cô đấy!

    - Thật thế ạ? - Liên hơi ngạc nhiên.

    - Cô đẹp dịu dàng, có cặp mắt tròn, gương mặt trái xoan rất giống cô em út của tôi.

    - Kìa, mẹ lại nhắc đến dì Thắm rồi!

    - Nó đi thanh niên xung phong vào Trường Sơn nǎm 17 tuổi cô ạ! Môi lúc nào cũng đỏ như tô son, nói nǎng lễ phép nhẹ nhàng, ai cũng mến! Thế mà nó không bao giờ trở về nữa...

    - Bố cháu cũng nằm lại ở Trường Sơn.

    - Thật thế à?

    Họ im lặng nhìn nhau. Nội lắc đầu đứng lên chọn bắp ngô to nhất đưa cho Liên:

    - Ăn đi cô! Từ ngày về hưu mẹ tôi hay hồi ức một mình và cũng mau nước mắt lắm! Cô thông cảm nhé!

    Liên gật đầu:

    - Em cũng mau nước mắt.

    - Vậy thì để tôi mở ca khúc "Chiều Hạ Long" cho nó vui lên nhé! - Nội bật chiếc cát xét nhỏ và nhún nhẩy hát theo: "... Hạ Long ơi, biết bao trìu mến... Những lúc ánh chiều xuống, những khi vầng trǎng lên...". Ngồi trên chiếc ghế xích đu đóng bằng ván hòm mìn ở hiên nhà, nhâm nhi bắp ngô luộc và ngắm nhìn Nội đẽo gọt những tảng than, thổi hồn vào than, Liên cảm thấy đầm ấm như đang ở nhà mình.

    - Ở đây mát quá, vừa có núi, có biển, vừa có công nghiệp hiện đại, vừa có cả thôn giã, thích thật!

    - Thích thì về đây mà ở, tôi cho không cả nhà, cả vườn đấy! - Bà Don rót thêm nước ngô cho Liên, giải thích. - Nhà tôi còn miếng đất trong phố bị bom Mỹ, chưa xây lại.

    Nội ngừng tay, vơ chiếc điếu cày định rít một hơi, nhưng bà Don đã trừng mắt nhìn nên anh nắn túi móc bao Bông Sen lem luốc dầu máy, rút điếu thuốc nhǎn nhúm châm lửa rít liền mấy hơi. Liên tủm tỉm cười nhớ tiếng thở dài hôm qua của bà Don.

    Hải rất vui biết Nội đã phải lòng Liên, suốt cả tuần bần thần chẳng làm việc gì ra hồn. Khi Hải đưa Liên trở lại với những tập tài liệu cơ bản về hội họa và điêu khắc cùng mấy con vật bằng sứ của nước ngoài, Nội nhảy lên, reo hò như vừa tìm được một kho báu. Anh bắt tay ngay vào đẽo gọt một đôi hươu xinh xắn, gắn lên tảng than mầu ngũ sắc, xung quanh kết những bóng đèn mầu nhỏ xíu như một vầng hào quang.

    - Tặng em đấy! Thích không?

    - Em rất thích! Nhưng em chẳng có gì tặng lại anh cả?

    - Một nụ hôn.

    - Vào má nhé! - Liên e dè nói.

    - Vào đây này! - Nội áp môi mình vào cặp môi mọng đỏ của Liên, cảm thấy người nóng ran.

    Liên đẩy anh ra, ngồi cau mày, tư lự. Với người khác và ở nơi khác có lẽ Liên đã cho ǎn tát. Nội lúng túng xin lỗi Liên. Anh ấp úng giãi bày nỗi lòng mình, nhưng Liên bịt tai lại. Nội bỏ ra vườn thẫn thờ rít thuốc và lẩm bẩm điều gì đó với gốc khế trĩu quả.

    Bà Don ngồi xuống cạnh Liên, vuốt ve mái tóc mềm, giọng nǎn nỉ:

    - Cháu đừng giận nó. Ngần ấy tuổi đầu mà vẫn như con trẻ ấy. Chưa biết yêu đương gì đâu, suốt ngày lo công việc xí nghiệp, về nhà chúi mũi vào mấy tảng than. Bác biết, nó không xứng với cháu. Nhưng mà nó sẽ cố học để trở thành kỹ sư.

    - Bác đừng nghĩ thế. Thực tình cháu cũng quý mến anh ấy! Nhưng cháu chưa dám nghĩ đến chuyện yêu đương. Vả lại...

    - Cháu bao nhiêu tuổi rồi?

    - Cháu mới hai hai.

    - Bằng tuổi cháu bác đã sinh em thằng Nội. Nếu cháu không chê gia đình thợ mỏ thì mẹ con bác được nhờ... Còn nếu cháu có đám nào khác thì cứ coi thằng Nội là bạn tốt của cháu. Bác đặt vấn đề nghiêm túc đấy cháu ạ!

    Liên im lặng bẻ những ngón tay búp mǎng, cảm thấy bàn tay mình ram ráp bụi than. Người ta nói nhiều về dạng "tình yêu sét đánh" để biện minh cho sự dễ dãi trong các quan hệ nam nữ hay chính số phận đã tạo nên những khoảnh khắc bùng nổ sự cộng hưởng của một loại tần số đặc biệt từ những tâm hồn đồng điệu? Dù sao Liên cũng không thể dễ dãi, vội vàng.

    Thời gian vùn vụt trôi. Dù chiếm được cảm tình của đám sinh viên cùng đi thực tập trong đoàn với Liên, nhưng Nội vẫn chưa thể tiến thêm được chút nào về phía trái tim của Liên. Cho mãi đến đêm chia tay, cả bọn kéo đến nhà Nội tranh giành kho sư tử than của anh, rồi ǎn ngô, uống bia, nhảy disco thâu đêm khiến bà Don trẻ lại, tận tụy phục vụ cho lũ trẻ đập phá thả cửa. Đời Liên chưa bao giờ có một đêm vui như thế, chưa bao giờ gặp một gia đình chân tình, cởi mở đến như thế. Và, trong men bia, trong tiếng nhạc tưng bừng, Liên đã kéo Nội ra góc vườn, ghì chặt anh vào lòng, hôn lên môi, lên má, lên mắt anh và òa khóc... Thì ra vị ngọt của tình yêu là có thật, mầu sắc của tình yêu là có thật. Nó lung linh huyền ảo, khiến tâm hồn con người lâng lâng thǎng hoa.

    Những bức thư nồng nàn tình cảm, những lần gặp gỡ tiếp theo ở Hà Nội, ở Hạ Long đã giúp cho Nội và Liên gắn bó nhau hơn. Họ bàn nhau Tết Nguyên đán Nội sẽ về quê Liên ǎn Tết và khi Liên ra trường sẽ tổ chức đám cưới.

    Liên xuống Cửa Ông từ 25 tháng chạp, đi lễ đền, viếng mộ ông bà và bố Nội. Họ sẽ đi tàu thủy về Hải Phòng vào 5 giờ sáng 27 Tết.

    Ngày Tết bến tàu, bến xe ứ đầy khách, hàng trǎm người không có vé cùng xô đẩy nhau tràn lên tàu. Anh thuyền trưởng hoảng hốt tháo dây neo định cho tàu lùi ra, nhưng tàu đã quá tải, lật úp. Tiếng gào thét, tiếng người rơi xuống nước, tiếng kêu khóc của trẻ nhỏ... Liên không bao giờ quên được cảnh tượng hỗn loạn của hàng trǎm con người đè lên nhau. Mặt biển mờ sương như sôi lên. Từ tầng hai của con tàu Nội ôm Liên nhảy nhanh xuống nước trước khi con tàu chìm hẳn. Đưa được Liên vào bờ, Nội chạy đi đập cửa mấy ngôi nhà dọc bến tàu, gửi Liên ngồi cạnh một bếp than, anh cởi áo khoác, cởi quần dài trao cho Liên rồi vội vàng lao xuống nước. Một người, hai người, ba người rồi bốn người được Nội cứu vào bờ.

    - Anh Nội! - Liên chạy ra gào to, cố giữ Nội lại. - Rét thế này... Anh nghỉ sưởi một lát đã.

    - Nội lắc đầu, hai hàm rǎng đập vào nhau:

    - Còn nhiều người ở trong các khoang lắm!

    Anh lại lao xuống nước. Trời sáng dần. Cả thị trấn đổ xô ra bến tàu. Người ta đang cố làm hô hấp nhân tạo cho những người xấu số nằm dọc bến tàu. Thời gian trôi đi rất nhanh, Liên nôn nao lo sợ không thấy Nội quay vào? Nhưng cô chỉ biết ngồi ôm khư khư bộ quần áo ướt của Nội cho đến khi Hải và bà Don cùng xuất hiện, Liên mới gào to: "Anh Nội ơi!" và lả đi, ngất lịm trong vòng tay của Hải...

    Suốt mùa xuân Liên nằm bẹp ở quê nhà, người gầy rộc. Hình ảnh Nội cứ chập chờn trong giấc ngủ, giày vò Liên: "Giá mà mình không yêu anh ấy thì người tốt như thế đâu phải chết trẻ". Ngày thanh minh trời không sáng sủa mà lại lất phất mưa. Ăn nắm xôi mẹ đưa, Liên bỗng thấy chóng mặt, buồn nôn. Chị y sĩ ở trạm xá được mời đến khám. Bất ngờ quá, chị thì thầm vào tai Liên: "Cô đã có thai". Chị gái Liên biết chuyện ngọt ngào bảo: "Đừng lo, mai chị đưa em đến khoa sản cho nó ra. Kín đáo thôi". Liên lắc đầu: "Em muốn giữ. Đó là giọt máu của người anh hùng". Liên nhớ bà Don. Chắc bà sẽ mừng lắm! Định viết thư báo tin, nhưng Liên tự hỏi: Liệu bà có tin là con của anh Nội không, hay người ta lại nghĩ mình muốn trút gánh nặng cho nhà họ? Phải ba nǎm sau Liên mới trở lại Cửa Ông đúng ngày sang cát cho Nội. Hải đã cưới Thương, xây nhà trên mảnh đất ở phố chính. Bà Don đã nhận một đứa trẻ mồ côi về làm con nuôi. Bố mẹ nó cùng mất trong vụ đắm tàu. Vậy là Liên quyết định không cho ai biết đã có con với Nội. Sau khi đi lễ đền Cửa Ông, Liên trở lại ngôi mộ mới xây thì thầm chuyện trò với Nội:

    - Em đã để tang anh đúng ba nǎm rồi nhé! Em đã sinh cho anh một chú thợ mỏ tương lai rất kháu khỉnh rồi nhé! Em vẫn giữ hòn than ngũ sắc của anh như biểu tượng mầu sắc tình yêu. Vậy là lúc nào anh cũng ở bên em đấy nhé!

    - Nhưng sao em không cho con về thǎm mẹ anh?

    - Để con lớn em mới dám dẫn về thǎm mẹ. Nó rất giống anh.

    - Hãy chǎm sóc cho nó học hành đến nơi đến chốn.

    - Mẹ em cứ giục em phải đi lấy chồng để thằng bé có cha. Nhưng em sợ...

    - Đừng sợ! Cứ lấy chồng đi. Em còn trẻ, không thể để phí hoài tuổi xuân vì sự chung thủy với hư vô.

    Liên không tin có ma, nhưng lại thích những cuộc đối thoại như vậy và đã nghe được những câu trả lời đúng của Nội. Nǎm sau Liên lấy chồng. Đó là một tay buôn đá đỏ đang phát với danh hiệu "Xuân tóc sâu" không chỉ vì anh ta có mảng tóc sâu bên trái đầu mà còn cả vì cách ǎn, cách nói uốn éo như con sâu rỉa lá. Trông bề ngoài anh ta cao ráo, khá đẹp mã, nhưng tính nết tủn mủn hơn cả đàn bà. Mua đắt thứ gì anh ta cũng xuýt xoa như bị vấp ngã. Thực ra Xuân đã đeo bám Liên ngay từ hồi nàng mới đặt chân lên đất Hà thành.

    Điều làm Liên hài lòng nhất là anh ta thực sự quý mến thằng Long và đã thuê hẳn một người giúp việc chǎm sóc nó, đi đâu cũng khoe là "con trai tôi đấy". Đám cưới được tổ chức ở nhà hàng Phú Gia rất sang trọng, chi phí mất mấy ngàn đô, không kể sợi dây chuyền mặt đá rubi của cô dâu giá trị mấy trǎm triệu. Mãi sau này khi đi lễ đền Cửa Ông, Liên bị kẻ cắp lấy mất cái túi xách có sợi dây chuyền mặt đỏ, phải nhờ Hải cùng công an phường truy tìm mãi mới chuộc lại được, chỉ mất có 200.000 đồng. Ông chủ hiệu vàng là người sành đá đỏ, đã mua sợi dây đó. Ông còn cho Liên xem cả một hộp mặt đá giả đủ loại của Tàu, của Thái cũng lấp lánh mê hồn. Liên chẳng nói chuyện đó với chồng, chỉ vứt sợi dây chuyền vào ngǎn kéo bàn trang điểm và cảm thấy rất buồn. Nhưng buồn hơn, nhọc nhằn hơn là phải đi nǎn nỉ xin "mua lại" những thứ đồ trang sức mà chồng nàng đã "ưu ái phân phối" cho những bạn học cũ của nàng. Khi nghe Liên đay nghiến về trò lừa đảo, anh chàng "Xuân tóc sâu" chỉ nhǎn nhở cười và tặc lưỡi:

    - Thì anh cũng bị lừa suýt sạt nghiệp, suýt bị còng số 8 nữa kia. Đời khốn nạn thế đấy!

    Liên nghi ngờ cung cách làm ǎn của Công ty vàng bạc đá quý mà chồng nàng đang giữ chức phó giám đốc. Nàng cũng nghi ngờ kiến thức đích thực của chồng bởi đã có lần anh ta nhầm lẫn "Balzac là niềm tự hào lớn của người Nga", v.v.

    Nhưng Liên không thể hiểu nổi tại sao chồng nàng lại có thể lòe bịp nàng, bắt nàng đeo mặt đá giả trong khi bộ sưu tập đá quý thật của anh ta lại giấu kỹ ở trong két sắt đêm nào Xuân cũng mang kính lúp ra soi, vừa ngắm vừa cười một mình mãn nguyện. Quả là mầu sắc của những viên rubi rực rỡ lắm, hấp dẫn lắm. Nhưng Liên đâu có hám giàu sang, phú quý.

    Chồng Liên đam mê cờ bạc hơn bất cứ thứ gì trên đời này. Anh ta có thể phóng xe vào tận Sầm Sơn ngồi trên thuyền đánh bạc suốt mấy ngày liền. Nhưng trai gái thì không. Liên biết rõ chứng bất lực của anh ta. Đó là điều khổ tâm nhất của hai vợ chồng. Nhiều đêm mùa đông Liên đã phải ngâm mình trong bồn tắm lạnh cóng cố quên đi sự khao khát thèm muốn. Ban đầu anh ta nói dối đang chữa bệnh viêm tuyến tiền liệt phải kiêng cữ một thời gian, Liên tin và vui vẻ ngủ với con. Quả là Xuân uống đủ loại thuốc. Nhưng lấy nhau một nǎm mà chưa hề ân ái là chuyện lạ khó tin. Liên tìm đọc các loại sách về bệnh lý và trong niềm cảm thông sâu sắc với chồng nàng đã cố gắng gần gũi, tâm sự chuyện trò và tìm đủ mọi cách tạo niềm hưng phấn cho chồng. Nhưng đến cả thần dược Viagra của Mỹ cũng chẳng ǎn thua gì. Anh ta đã cố hết sức và khi không làm được gì thì giày vò thân xác Liên như một thằng điên. Sau này Liên mới biết thời trai trẻ anh ta hung hǎng lắm, học chưa hết nǎm thứ hai Đại học Mỏ địa chất đã bỏ đi đào vàng, đào đá đỏ, trở thành đại ca, suốt ngày rượu chè, em út triền miên rồi đổ bệnh lậu và sốt rét ác tính phải quay về nằm bẹp mấy nǎm ở quê. Bố mẹ bắt lấy vợ mong có cháu nối dõi tông đường. Cô thôn nữ về làm dâu nhà Xuân bị tiếng oan là "vô sinh" van lạy xin được ly hôn nhưng anh ta chỉ cười khẩy: "Rồi cô sẽ có con...". Mãi đến khi xây dựng cơ nghiệp kha khá ở Hà Nội, gặp được Liên, anh ta mới về quê ký đơn ly hôn cho cô vợ của anh ta và dọa nếu để lộ anh ta sẽ giết.

    Trong lần về quê thǎm mẹ chồng gần đây, tình cờ Liên đã gặp người đàn bà ấy. Chị ta đã lấy một người thương binh, tuy lớn tuổi và bị cụt chân nhưng đã cho chị một bé gái kháu khỉnh. Nhà họ nghèo quá, mái tranh đã mục nát, chẳng có ti vi, chẳng có xe đạp. Liên dốc hết túi tiền nhét vào tay chị và nói:

    - Lần sau về, em sẽ đưa chị nhiều hơn.

    Người đàn bà ôm Liên thổn thức:

    - Tôi có tội với cô. Đúng ra tôi phải nói sự thật cho cô biết ngay từ buổi đầu. Nhưng tôi sợ, tôi hèn, khiến cô phải mang gông khổ suốt đời. Tôi biết cách anh ta hành hạ đàn bà... Cô có bị thế không?

    Liên ứa nước mắt, gật đầu...

    Nhìn vào cuộc sống của vợ chồng Liên, ai cũng ngỡ họ hạnh phúc lắm, sung sướng lắm. Có bao nhiêu gia đình phải giấu kín những bất đồng, những nỗi đau như Liên, thỉnh thoảng dắt tay nhau dạo phố, cũng vờ cười nói hoan hỉ với mọi người. Dù sao Liên cũng đã có một đứa con và nó đang khôn lớn trong sự cưng chiều của chồng nàng. Đó là niềm an ủi lớn nhất, giúp nàng nhẫn nhục sống. Ban đầu Xuân còn để cho Liên giúp việc trang trí ở một cửa hàng bách hóa. Nhưng vì có lúc phải làm đêm, anh ta bắt nghỉ việc. Cực đoan hơn Xuân đã bẻ hết bút vẽ, ném giá vẽ vào góc nhà kho. Dù rất ghen, nhưng thái độ cư xử dịu dàng, lối sống có vǎn hóa của Liên và đặc biệt là sự nghiêm túc trong các mối quan hệ đã có tác động ít nhiều đến người chồng vốn "coi trời bằng vung". Tuy Liên không nói ra, nhưng anh ta biết khá rõ tình yêu của nàng đối với Nội và cùng với đứa con, hòn than ngũ sắc có ý nghĩa thế nào. Thôi thì cứ để nàng "ngoại tình với quá khứ" còn hơn là nàng thậm thụt đi lại với bọn trai tơ bẻm mép, hám của như khối vị mệnh phụ phu nhân đã mắc phải. Dù chưa bao giờ Liên dọa ly hôn, nhưng chồng nàng tự hiểu: trước sau gì điều đó cũng xảy ra. Thuốc men đủ loại không có chuyển biến gì anh ta đi hết đền chùa cầu khấn. Thế rồi một gã thầy bói ở xó làng nào đó bỗng nhiên xuất hiện với lời phán quyết đúng vào khát vọng của anh ta, rằng: "Phải đập đá, dỡ bỏ mọi vật mầu đen trong nhà và nơi làm việc thì mới lấy lại được khí chất đàn ông. Cái tủ gụ đánh véc ni đen được thay thế bằng chiếc tủ ván ghép Singapore đóng theo kiểu Italia mầu vàng chóe, nẹp xanh lá cây. Toàn bộ khung ảnh mầu nâu đen, tượng Phật bằng đồng hun đen cũng bị thay thế bằng nhũ vàng rực. Tất nhiên hòn than đen lấp lánh vân ngũ sắc được Liên nâng niu bao nǎm nay phải bị đập vỡ đầu tiên. Nhưng tất cả những điều đó cũng chẳng thể trả lại gì cho Xuân khí chất của người đàn ông. Mảng tóc sâu trên đầu Xuân đã ngả dần sang mầu bạc trắng và người vợ càng ngày càng héo hon, vật vờ như cái xác không hồn. Có những buổi chiều nàng ngồi bên khung cửa sổ mắt đǎm đǎm nhìn ráng đỏ hoàng hôn, vừa hát ru vừa khóc, khiến anh chồng cũng phải động lòng nới rộng các khoản chi tiêu.

    Vào một ngày cuối đông, có một người khách lạ tìm đến thǎm mẹ con Liên với rất nhiều quà xuân. Đó là vị lương y, tiến sĩ rất nổi tiếng với những bài thuốc y học cổ truyền. Ông vui vẻ nói:

    - Chị không biết tôi đâu, nhưng tôi thì không thể quên được hình ảnh chị ngồi ôm bộ quần áo của anh Nội buổi sáng cuối nǎm ấy! Vâng, tôi là một trong những người đã được anh Nội cứu sống. Nǎm nào tôi cũng về thắp hương ở Cửa Ông nhưng mãi đến hôm qua tình cờ gặp anh Hải tôi mới biết được địa chỉ của chị và cháu.

    Hình như Hải đã kể cho ông tiến sĩ nghe hoàn cảnh của Liên nên trong số quà xuân còn có cả cho riêng chồng nàng mấy hộp thuốc bổ thận tráng dương đặc hiệu do ông đúc rút và phối chế thành công từ nhiều bài thuốc quý ngày xưa.

    Đang ngồi soi lựa những viên đá ru bi ở cuối phòng nghe nói đến tác dụng tǎng lực của thuốc, cặp mắt Xuân hấp háy, rực sáng. Anh ta cuống quýt lấy rượu Martin XO mời khách và rụt rè chìa tay xin được bắt mạch.

    Ông tiến sĩ vui vẻ thǎm mạch, quan sát thần sắc của Xuân, hỏi han đôi điều rồi chậm rãi nói:

    - Sinh lực giới tính không chỉ được nuôi dưỡng, bồi bổ bằng cao lương mỹ vị. Có những bệnh thuốc chỉ chữa được một nửa, còn nửa kia thuộc ý thức của con người. - Ông tiến sĩ mỉm cười, ngǎn không cho Xuân rót thêm rượu và tiếp: - Có những việc nhỏ nhặt trong cuộc sống tưởng là vô hại nhưng lại dễ dàng làm ta mất dần khí chất đàn ông hoặc mất dần nữ tính. Đam mê ma túy giết chết mọi đam mê khác. Đam mê tiền bạc quá cũng vậy. Giành lại khí chất của một con người là một cuộc chiến đầy khốc liệt chỉ có thuốc thang thôi không đủ mà phải có nghị lực, phải dũng cảm thay đổi nếp sống, nếp nghĩ. Phải biết làm nhiều việc tốt đẹp cùng với sự rèn luyện thân thể thường xuyên sẽ tạo nên sự khỏe khoắn cho cả thể xác lẫn tâm hồn...

    Nghe lời khuyên của ông tiến sĩ, Liên mua chậu hoa, cây cảnh, nuôi cá, nuôi chim, sơn lại ngôi nhà, trang trí lại phòng ǎn, phòng ngủ và tỏ ra chǎm sóc chồng con nhiều hơn, vui vẻ hơn. Từ đáy sâu của một tâm hồn đã bị mầu sắc của đá quý đóng bǎng, trong óc Xuân bỗng lóe lên những mảng mầu ấm áp của tình thương yêu và bao ý nghĩ mới mẻ:

    - Nàng đã chịu khổ vì ta, đã cắn rǎng chung thủy với ta... Lẽ nào ta không thể cao thượng vì nàng được sao? Không thể đem lại niềm vui cho nàng được sao? Phải tìm lại cho nàng hòn than ngũ sắc, phải mua kỳ được bức tranh "Chiều Bái Tử Long" và phải trả lại giá vẽ cho nàng...

    Chuông điện thoại réo. Liên vẫn nằm im. Cô giúp việc đỡ ống nghe rồi cầm máy lại cho nàng: "Điện thoại của bà".

    - A lô! Vâng, tôi đây! Xin lỗi, tôi đang được nói chuyện với ai ạ?

    - Không nhận ra bạn cũ nữa à? Lê Hải đây!

    Liên ngồi dậy, sôi nổi hẳn lên:

    - Sao anh biết số điện thoại nhà em?

    - Chồng em vừa ở đây. Anh ấy nhờ anh kiếm cho hòn than ngũ sắc.

    - Có kiếm được không?

    - Không!

    - Khó thế kia à?

    - Đó là loại than ǎngtờraxít đã ngấm các loại dầu thải đổ bừa bãi hàng chục nǎm trầm tích mới tạo nên mầu sắc. Bây giờ mỏ than đã có các bể lắng lọc dầu không một người thợ nào được phép để vương vãi dầu mỡ ra nền đất, nền than. Vì thế sẽ vĩnh viễn không còn những hòn than mầu ngũ sắc nữa. Mà em đừng buồn! Trân trọng nhưng không nên luyến tiếc, gặm nhấm mãi nỗi đau. Cái mất này là chuẩn bị cho ta những cái khác lớn hơn. Những sắc mầu không nhìn thấy được bằng mắt mới khó tìm.

    - Anh chỉ định nói có thế thôi à?

    - Còn nữa! Đây mới là điều quan trọng. Bà Don vừa mất chiều nay. Em nên đưa cháu đích tôn của bà về chịu tang.

    - Sao anh biết thằng Long là cháu bà Don?

    - Anh biết hết mọi chuyện. Mà nó giống cậu Nội thế, lạc vào đâu được.

    - Em đã xem bức tranh "Chiều Bái Tử Long" của anh. Đẹp lắm! Em muốn mua.

    - Chính nhờ những tài liệu và cái giá vẽ em để lại ở nhà Nội mà anh vẽ được bức tranh ấy đấy. Cứ xuống đây, anh tặng em tất. Tặng cả cuộc đời còn lại của anh nữa.

    - Nói thế mà không sợ cô Thương xé xác à?

    - Cô ấy bỏ anh theo bạn tình mới sang Canada rồi. Còn chồng em thì đã đồng ý giải phóng cho em. Anh ấy đã kể hết... và thực sự muốn làm điều gì đó tốt đẹp cho em.

    Liên lặng đi hồi lâu không hoàn toàn tin chồng mình hào hiệp thế, đổi thay nhanh thế, nhưng nàng vẫn rất vui, giọng sôi nổi, quyến rũ:

    - Thế còn anh?

    - Anh đã mê những sắc mầu ẩn kín trong tâm hồn em ngay từ hôm đưa em đến nhà Nội mua sư tử than. Nhưng hồi ấy anh sợ...

    - Sợ gì?

    - Sợ mình xấu xí, hèn kém. Vả lại Nội nó xứng đáng hơn anh. Lâu nay anh vẫn mơ tưởng có ngày gặp em. Anh nỗ lực học vẽ chính vì điều đó. Mà tại sao em lại có thể quẳng bút vẽ đi dễ đàng vậy? Hãy cầm bút, ta sẽ thấy cuộc đời đẹp biết bao trước muôn vàn sắc mầu rực rỡ, tốt lành. Mong sớm gặp lại em...

    Có tiếng còi ô-tô và chiếc Toyta Camry mầu đồng quen thuộc đỗ lại trước cổng. Liên nhận ra chồng nàng khệ nệ ôm một tảng than bước vào, giọng từ tốn, vui vẻ khác thường:

    - Anh sẽ ngâm tảng than này trong dầu. Chắc chắn rồi nó sẽ tạo ra được những vân mầu rực rỡ. Cùng với nó, anh muốn trả lại cho em tình yêu và hạnh phúc đích thực.

    Liên xúc động nhìn chồng đang thận trọng đặt tảng than vào chiếc hộp kính do người lái xe vừa bê tới. Dù biết đây chỉ là một việc làm mang ý nghĩa tượng trưng, Liên vẫn hôn lên má chồng, giọng trìu mến:

    - Em cảm ơn anh rất nhiều!

    Ngày hôm sau Liên còn ngạc nhiên hơn khi đang chuẩn bị hành lý đưa con về vùng than, nàng nhận được tờ đơn ly hôn đã có chữ ký của chồng.

    - Anh đã nghĩ kỹ rồi. Không thể làm khổ em mãi được. - Ngừng lại nuốt nước bọt, gãi vào mảng tóc sâu, Xuân thở dài và gượng cười, chân thành nói tiếp: - Đây là giấy thông hành vào đời của em. Chiều nay anh sẽ bay sang Đức dự triển lãm quốc tế. Có thể anh ở lại chữa bệnh khá lâu. Mong em tìm được hạnh phúc đích thực của mình. Lê Hải là một người tốt và hình như cũng rất yêu em.

    Đúng là Lê Hải đã có lần tỏ tình với Liên khi Hải đến thǎm nàng mới sinh con, nhưng Liên chưa bao giờ chờ đợi điều này. Nàng cố đọc những ý nghĩ trên gương mặt đau đớn mà thanh thản của chồng. Hóa ra con người nào cũng có những khoảng sáng, những sắc mầu nội tâm đa chiều mà chỉ ở những thời điểm nào đó mới lấp lánh, mới cho ta nhìn thấy.
    [/FONT]
     
    No MercY, Aprilia and Sân Mây like this.
  10. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khách ở quê Ra[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Minh Châu[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1
    Định rót rượu ra chiếc chén hạt mít. Khách nhìn, áng chừng lấy làm sốt ruột và có lẽ cho là nhiêu khê, liền cầm lấy chai rượu từ trên tay chủ. Trong tay ông khách, chiếc chai bảy ồng ộc xối rượu xuống chiếc bát ăn cơm còn để không đặt ở rìa mâm.

    Ngoài trời vẫn mưa. Mưa đã mấy ngày cũng chả còn ai nhớ được nữa. Chỉ thấy một khối nước trắng lúc nào cũng tuôn rào rào ngoài mảnh sân hẹp và mau hơn, giòn hơn trên mái ngói chi chít của dãy phố. "Cho mày mưa! Cho mày mưa! - khách nâng chiếc bát lên lại đặt xuống - cứ mưa nữa đi! Lúa trổ xong rồi. Lạc cũng nhổ rồi. Chỉ còn mấy miếng nếp. Chà, mấy miếng nếp mưa này rồi cũng hơi gay đây. Nhưng cũng chẳng sao! Cũng chẳng việc quái gì!".

    - ... Vậy rồi nó xách một con dao... một con dao quắm hẳn hoi chú à! - đang nhìn ra ngoài trời, khách thu cả hai con mắt về, nhô nửa người qua mâm cơm - Tôi thấy nó lao như mũi tên từ trong bếp ra. Con dao cầm lăm lăm trong tay. Con dao quắm vừa sáng vừa sắc, tôi vừa mới mài. Con dao thì sáng loáng mà cái mặt nó thì cứ trắng nhợt. ấy là tôi đang nói cái thằng Dũng - cái thằng con trai đầu của tôi đó chú à! Nó chạy xồng xộc ra chỗ đầu bờ mương tôi với lão chắt Hòe đứng. Tôi biết ngay. Phen này mình không nhanh tay ắt có án mạng. Chứ không còn là chuyện cãi cọ đôi co vì mấy con dê giữa tôi với lão chắt Hòe nữa. Bọn thanh niên nó khác. Chúng nó không thích đôi co đâu!

    Mà cái lão chắt Hòe thì đằng thẳng ra, cũng đáng chết lắm. Chú tính, cái giống dê, dù rằng mỗi con có bốn chân nhưng chân cẳng của dê làm sao giẫm hết cả một sào nếp? Đàn dê của tôi có sáu con cả thảy. Nhưng chân dê chứ có phải chân trâu bò đâu?

    Tôi cũng có một miếng nếp, nhất định tôi sẽ đền cho bác - Tôi nói với lão chắt Hòe - Cả hai miếng cùng một tràn ruộng, cũng đều một sào cả - Tôi nói ôn tồn. Vậy mà cha con nhà lão cứ chực xông vào đánh tôi. Lại đem tên bố mẹ tôi ra mà réo chửi. Cho nên thằng Dũng nó tức.

    May làm sao! Cái con mẹ Huệ nhà tôi lúc ấy cũng vừa gánh hai thúng đá ngoài ruộng về. Đặt gánh đá xuống, nó lao theo. Nó ôm chặt lấy thằng Dũng, giằng được con dao quắm! Tôi nghĩ thật hú vía!... chứ không thì bồ ổ nhà lão chắt Hòe bữa đó... thế nào cũng có đứa biến thành ma ông Cụt. Nói vô phép chú chứ, con cái nhà nó tiếng là đông cũng chỉ có hai mống là lớn, chứ bên nhà tôi có những bốn đứa lớn cơ!

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong khi khách nói, Định ngồi ngắm lão. Định ngắm kỹ và lâu nhất hai bàn tay của lão. Chẳng còn là hình thù một cái bàn tay con người nữa! Hai bàn tay lão đầy những chỗ nỗi u nổi cục, các ngón vặn vẹo và bọc một lớp da giống như một thứ vỏ cây, và cả bàn tay lão giống y như một tòa rễ cây vừa mới đào dưới đất lên. Và Định như đang nhìn thấy một thứ đất đến kỳ cục: cứ lổng chổng đầy những đá. Viên bé chỉ là một hòn đá kỳ lưng, hòn to cũng ngang cái đầu. Và lại còn cơ man là rễ cỏ tranh. Một vùng đất của dân biển lên mở trại (1) lúc nào cũng phả ra chung quanh mùi rễ cỏ tranh ngai ngái, hăng hắc và ai đã đến đấy khi trở về, vẫn cứ phải nghe mãi cái dư âm ken két đầy rền rĩ của những chiếc xe cút kít - mà sự ra đời của nó lại như một phát kiến của loài người: Công việc khẩn đất ở đấy nặng nhất là khâu nhặt đá. Ban đầu từ người lớn đến đứa con nít cũng chỉ dùng tay. Về sau mới tiến lên đan ky, đan sọt để khiêng và gánh. Tiến lên một bước nhảy vọt, người ta đóng xe cút kít để chở đá.

    Vùng đất đó là một vùng phía tây của miền trung - cái vùng "chó ăn đá, gà ăn sỏi" - mà giá không có bàn tay của những người như lão Khúng, lão cháu ruột của Định kia thì vẫn mặc sức ngủ kỹ dưới lốt chân hổ báo, dưới gió Lào, dưới giông bão, dưới bom đạn.

    Vào một lần cách đây đã mười bốn năm, Định khoác chiếc ba lô cóc nặng gần bốn chục cân - trên đường đi B dài - đến một cung độ từ đấy đâm thẳng xuyên qua đường số Một về phía biển là làng Định. Đoạn đường giao liên vừa bỏ rừng chạy qua những triền đồi trọc. Hình như địch vừa ném bom. Trong cái nắng đến ngột thở có pha lẫn mùi thuốc bom. Hố bom, cái đỏ quạch, cái vàng sẫm. Nhìn ra bốn phía chung quanh nhấp nhô những dãy đồi cứ chạy xô vào nhau như rắn cuộn, thỉnh thoảng y như tận trên trời cắm thẳng xuống một hòn núi đá như một chiếc lưỡi tầm sét.

    Trong cái nắng chiều ong ong, ngột ngạt, không lúc nào ngớt tiếng máy bay phản lực Mỹ bay lên từ mạn biển, một dáng người đàn ông cúi khom lưng xuống đẩy một chiếc xe chở đầy đá.

    - Anh Định đấy hả?

    Định nhận ngay được giọng "kẻ biển" của làng mình - vừa nặng trịch vừa véo von như hát - nhưng phải một lát sau mới có thể nhận ra lão chắt Hòe:

    - Bác làm gì tận trên này?

    - Tàu bay thằng Mỹ nó vít mất lối ra chỗ có con cá rồi! - lão chắt Hòe thở hắt ra một tiếng, cái mặt nhuộm muối biển càng đen sắt - Bố con tôi vừa kéo nhau lên đây!

    Định kéo lão chắt Hòe tới một gốc cây, mở lương khô khoản đãi, đưa thuốc lá cho lão hút, tỷ tê hỏi đủ mọi chuyện dưới làng. Đến lúc sắp đứng dậy lão mới bảo:

    - À này anh Định, nhà thằng Khúng cũng đang ở trên này...

    - Thằng Khúng nhà tôi hả bác? Nó lên đây một mình hay cả nhà?

    - Cả con vợ với ba thằng quỷ sứ.

    - Nó lên lâu chưa?

    - Nó lên đầu tiên. Bỏ làng lên đã nửa năm nay. Tôi thấy bồ ổ nhà nó sống được nên cũng mới nghe nó rủ, kéo lên theo.

    - Nó ở gần đây không?

    Định nhìn theo mũi con dao quắm lão chắt Hòe nhứ nhứ về phía khoảng bìa rừng xanh um, từ ở đấy vẳng lên tiếng hót đầy lảnh lói như có cạnh sắc của com chim "bắt tép kho cà".

    Gần trọn ngày hôm sau, Định lạc giữa một vùng rừng và đồi trọc, đến chiều tối mới tìm thấy cái gia đình ông cháu chả khác nào một cái ổ gấu chó nằm lọt vào giữa một vùng rừng cỏ tranh cao ngập đầu, đó là một cái túp bằng lá cỏ tranh bện lại, bốn chung quanh xếp đầy đá, dựng trên mấy vạt đất mới vỡ.

    Trong cái ổ gấu, mấy chú gấu con đang đánh lộn nhau khi ấy chỉ mới là một phần ba số con cái của Khúng, và người đàn bà đã đẻ ra những đứa trẻ ấy, tuy sống giữa rừng nhưng vẫn trẻ đẹp, còn Khúng, y như một con người vừa từ dưới lỗ lên, vừa đen vừa gầy vừa già vừa xấu.

    Bữa đó Định cầm mấy phong lương khô đi theo định làm quà cho mấy đứa cháu gọi Định bằng ông, nhưng đến nơi mới biết, trong túp lều vợ chồng Khúng, dưới cái hầm thùng chất đến những ba thùng lương khô còn mới nguyên. Thì hóa ra cái vùng đồi dân miền biển lên sơ tán và khai hoang để chống đói này cũng không xa các bãi khách của bộ đội đi B là mấy nỗi. Các đơn vị tên lửa và xe pháo đều đóng đầy quanh đây cả, trăm thứ của nả của chiến tranh đều không thiếu.

    Trên đường vào nam đánh giặc, Định mới có dịp hiểu biết kỹ hơn ý đồ làm ăn lâu dài của người cháu: Rời làng lên đã nửa năm mà Khúng chưa chịu làm nhà, hắn vẫn để vợ con chui rúc dưới mấy tấm phên cỏ che trên cái hầm thùng. - "Dựng nhà làm khỉ gì - Khúng nói với vợ - làm mục tiêu cho tàu bay nó bắn ư?". Bao nhiêu sức lao động trong "bước đi ban đầu" hắn đem dồn hết vào việc vỡ đất. Hắn tranh chấp với rừng từng bước, không phải chỉ bằng mồ hôi mà cả bằng máu: Ngày mới lên, hắn đã bị thương trong một lần máy bay ném bom đêm - giữa lúc hắn đang vãi lúa lốc.

    Chung quanh cái "ổ gấu" dần dần mọc lên một vành đai sắn ở phía ngoài, sắn lên xanh ngắt chen chúc cây dại. Đậu xanh, đậu tương ở sau nhà. Lúa tẻ, lúa nếp trước nhà. Chỗ ăn ở tuy chưa được "đầu tư" thế nhưng hôm trời nắng to, vợ hắn lôi ra phơi bên cái bờ mương dẫn nước - trên mấy cây sào nứa hàng đống quần áo, chăn màn; toàn đồ quân trang, quân dụng của anh em bộ đội đi B. Chẳng hề giấu giếm, ông cháu ruột "báo cáo với chú" đã đổi được bằng thịt dê và rượu. Ngày ở dưới làng, vợ chồng con cái rách như tổ đỉa. Bây giờ cả nhà hắn mặc quân phục. Người nào cũng lành lặn. Vào dịp dưới làng có giỗ chạp, Khúng đánh hẳn một bộ tô châu xuất hiện trước mắt những người làng với tư thế của một người đi làm ăn xa về ăn nên làm ra, lại vừa với dáng vẻ một cán bộ trên vùng khai hoang về.

    Phú quý sinh lễ nghĩa, hắn mang về cúng hẳn nhà thờ họ một chiếc võng đôi bằng loại vải tê-tờ-rông, để thuê thợ vẽ cây gia hệ. Cả họ năm nào tế tổ cũng cứ bàn nát ra về việc quyên cúng tiền mua mấy mét lụa, bây giờ hắn cúng vào một tấm tê-tờ-rông, thế là xong.

    Thậm chí vợ hắn cũng trở lại với những thói quen của một người thành phố đã bỏ quên từ lâu. Từ rất lâu vợ hắn tưởng đã bỏ quên hẳn thói quen mặc áo lót mình. Sau mỗi lứa đẻ, hai bầu vú để thỗn thện, bây giờ "co" người lại trở nên gọn gàng, và chiếc nịt vú của người đàn bà cũng may bằng thứ mặt hàng quân phục. Đêm nằm bên vợ, bây giờ hắn thấy trên khuôn ngực trắng như ngó sen tự nhiên úp vào hai cái vung may bằng thứ vải tô châu mới xanh biếc, như hai con cánh cam to tổ bố, nom đến tức mắt.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Về người cháu đích tôn này, có thể nói cứ mỗi bận Định về làng trong những dịp họa hoằn lắm trong đời, không thể không về, như sang tiểu cho bố mẹ, người thân chết - lần nào Định cũng phải đóng vai trò như một chứng nhân của một quãng đời có cái gì khác thường của hắn. Kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, Định bận bịu mãi với đám tù binh, thu xếp cho chúng về nước hết anh mới về thăm làng được. Bị ném bom bao nhiêu lần, làng vẫn nguyên vẹn, vẫn y như hồi Định còn cắp sách đi học trường tiểu học, chỉ thấy cái gì cũng bé lại, từ con sóng ngoài biển cũng bé lại và cũng phủ một lớp bụi cũ kỹ. Cuối kháng chiến, làng được tặng thưởng huân chương vì thành tích tổ chức được một đội thuyền vượt biển đi tiếp tế vũ khí tận trong Khu Năm. Nhưng chiến tranh kết thúc, gần bốn chục cặp thuyền giã khơi chỉ còn lại một mớ xác thuyền nằm gối bãi rải rác dọc con sông nước mặn.

    Định gặp Khúng ở ngang cái xóm đạo nhìn sang bên kia sông là mấy mảnh tường đá còn sót lại của một cái nhà đoan Tây ngày xưa. Hắn mặc một chiếc áo vải thô nhuộm vỏ già đã nhùng nhục, hai vạt trước mở phanh, một chiếc nón đan bằng giang cắp bên nách, quần dài cởi vắt vai.

    - Chú Định, chú đến là tệ! - Hắn túm lấy anh, mùi rượu phả sang mặt Định, lẫn mùi thịt chó - nghe nói chú về đã mấy ngày mà cứ ở tịt đâu tận trên ủy ban...

    - Nào đâu có, kìa, tao vừa về đến đây... hồi này có vẻ cậu như đã chuyển sang làm nghề biển rồi?

    - Cánh nghề biển đang chạy túa lên các xứ đồng cắp rổ đi mót khoai lang kia kìa! - Hắn ưỡn ngực ra - Vả lại, mình phải giữ lấy cái nghề gốc của đời ông bà chứ?

    - Nếu làm ăn ra... xoay sang nghề biển cũng được chứ có sao?

    - Thế là chú mất gốc. Họ nhà mình chỉ nên sống với cái hòn đất.

    Khúng giành lấy ba lô, túm áo mũ Định lôi tuột anh về nhà hắn. ?i, nhà với cửa! Ngôi nhà của hắn mới thoạt nhìn thấy, Định đã hốt hoảng. Sao mà hắn lại có thể phỉ báng thần linh đến thế cơ chứ? Cả làng có độc một ngôi đền chung cho cả dân đánh cá lẫn dân ruộng nằm thìa lia ra ngoài cửa lạch, nổi tiếng khắp vùng đền làng Khơi là đền thiêng. Ngày xưa, hàng xóm nhà Định có một tay dân đánh cá chẳng hề biết sợ hãi ai cả, nổi tiếng ốc sạo, ngang bướng, vậy mà một lần đi qua trước cổng đền, trông thấy một bãi cứt trâu liền ngồi xuống dùng hai tay hót vứt đi. ấy vậy mà bây giờ cái thằng Khúng cả gan dám dựng nhà ngay trên cái nền đất cao ngất của ngôi đền làng mà ở. Tiếng rằng ngôi đền đã bị đánh bom nhiều đợt chỉ còn một hàng bậc thềm xây đá Thanh, nhưng làm nhà ở trong khu đất của đền như một vài người khác đã quá lắm, vậy mà hắn lại leo lên đúng ngay chỗ thần linh đứng?

    - Xùy, cháu cứ tưởng chú đã đi bộ đội phải nghĩ khác những người làng... - Khúng nói lấp lửng.

    - Theo cậu thì nghĩ như mình và bà con trong làng là... lạc hậu ư?

    - Cháu ngu dốt, từ nhỏ đi học đã tối dạ, nhưng chú biết đấy, từ nhỏ cháu đã là đứa khoảnh nghịch. Cháu cất cái nhà lên ở đây, người ta đồn đại ghê lắm! Chẳng phải chỉ có làng này mà tiếng tăm cháu đồn đến tận nhiều làng khác cơ!

    - Vậy là cậu nổi tiếng?

    - Hì, hì... nổi tiếng thích chứ chú? Chú tưởng chú không thích nổi tiếng đấy hử? Người ta sống ở đời, chưa có miếng ăn thì cúi gò lưng xuống mà kiếm miếng ăn, có miếng ăn rồi thì ngẩng cao mặt lên cho thiên hạ biết mặt. Đến con cua con cáy cũng có lúc nó phải khuơ cái càng lên trời cơ mà!

    - Cậu cũng đang khuơ cái càng lên đấy!

    - Cháu đã mang tội nhạo báng thần linh thì chú cũng đừng nhạo báng cháu, cho có tội! à này, tháng trước cháu vào trong chợ Chầu mua cái ách cày, tận tai cháu nghe một mụ hàng nước nói rằng ngoài làng Khơi có một tay làm nhà trên đất đền, nhà cất lên đã cháy đi cháy lại ba bận, nuôi con chó, con lợn đều chết. Vợ ốm, con ốm.

    Định phì cười:

    - Làm gì cậu đã có vợ mà ốm?

    - Có, có... chú đi bộ đội cháu không biết ở đâu cho nên cháu không báo cáo được với chú đó thôi!

    Miệng nói chân hắn thò xuống phản khua đôi guốc mộc. Tận đến lúc bấy giờ Định mới kịp để ý đến cái ánh lửa rơm cháy phừng phừng có thể soi rõ hình ông Thiện và ông ác đắp nổi ngoài cổng đền.

    Vợ Khúng mặc chiếc áo len xanh cụt tay, rón rén đi theo Khúng lên chào ra mắt Định. Trời đã tối, Khúng châm ngọn đèn. Hắn vừa khêu to bấc đèn vừa lúng búng:

    - Chú đấy!... - rồi quay sang Định - vợ cháu vừa đẻ. Nó tên là Huệ.

    Người cháu dâu, vừa thoạt nhìn Định đã thấy chẳng có gì ăn nhập với Khúng, cũng y như cái nền ngôi đền linh thiêng trên đó hắn vừa cất lên túp lều của hắn.

    Giữa hai con người có một cái gì quá đỗi khập khiễng, ai mà tin được có thể là hai vợ chồng, khi người vợ như một nữ sinh thành phố đứng bên cạnh Khúng. Chả khác một chiếc cốc pha lê bày bên một chiếc cối giã cua.

    - Cháu ở đây... có thấy sợ không? - Câu đầu tiên Định hỏi người cháu dâu.

    - Thưa chú... một mình cháu thì cháu không dám ở ạ!

    - Chắc là cháu ở một thành phố nào ngoài Bắc?

    - Thưa vâng ạ. Cháu ở thành phố Nam Định.

    - Sao cháu nói pha tiếng trong này?

    - Lên năm tuổi, thầy cháu đưa cháu đi theo vào Vinh rồi sang Luông Pra-băng. Thầy cháu là kỹ sư cầu cống. Cháu về Bắc rồi lại vào Vinh một lần nữa, đi học cho đến ngày ta phá thành phố...

    Người con gái không nói tiếp. Định cũng không hỏi thêm, anh không dám. Đến hồi đó mới khoảng năm 1947. Khúc đường đời từ đó về sau, trong cảnh kháng chiến chắc hẳn không ít các điều bất ngờ xảy đến. Định chợt nhìn thấy một vẻ chán chường tuy kín đáo hiện ra ở cái nếp nhăn thấp thoáng bên khóe miệng người con gái thành phố. Chẳng lẽ đến đây, như đã là một bước đường cùng, hay một bước đường tạm dừng?

    Trong buồng, đứa trẻ đang khóc. Huệ vội vã chạy vào bế đứa trẻ ra trao cho Khúng, để đi dọn cơm.

    Đó là một đứa con trai, mới chừng vài tháng. Đột nhiên Định sực nghĩ chắc chắn đứa bé không phải là con Khúng.

    Nằm trên đôi cánh tay của Khúng, nó càng khóc ngăn ngắt y như bị đau đớn ở một chỗ nào đó trong người.

    Định chìa tay ôm lấy đứa trẻ, bế đến bên cái đèn. Anh hỏi Khúng:

    - Đặt tên con là gì?

    - Hình như con vợ tôi nó đặt là Dũng - Khúng đáp.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]- Đã già, mặt mũi lại y như cái nồi đất kho cá, mà... mà cái lão chắt Hòe một bận đang đêm lẻn vào buồng vợ tôi, nấp vào sau cái chum. Nhà Huệ nó biết liền đóng sập cửa lại. Có mà chạy đường trời! Chẳng xơ múi gì mà từ đó hễ trở trời là lão kêu đau. Tôi chỉ giáng cho một gậy thước vào lưng chứ có nhiều đâu.

    - Cậu uống nước đi rồi ăn cơm! - Định giục ông cháu.

    - Tôi không ăn cơm đâu... Từ đó, lão ta đâm ra thù tôi, lão nói với thằng Dũng nhà tôi rằng mày không phải là con lão Khúng. Mẹ nó chứ, không phải là con tôi mà tôi lại nuôi từ lúc mới lọt lòng ra? Mà tôi đã cưới vợ cho nó tốn hết bao của nả? Không phải là con tôi mà trời mưa gió lụt lội thế này, tôi cũng phải cất công tiễn nó ra tận Hà Nội... để cho nó đi bộ đội.

    Ông khách nhắc chiếc chai lên, lại xối rượu vào chiếc bát sứ. Nhưng khách vẫn chưa nhấc chiếc bát mà chỉ chun mũi hít hít cái không khí ẩm ướt hơi lành lạnh tan vào trong hơi men. Chẳng còn nhớ gì nữa đến những miếng nếp và khoảnh lạc bao quanh cái ngôi nhà mới xây năm gian tuyền bằng đá, lão Khúng chỉ còn nhớ được cái lúc chuyến tàu hỏa sắp vào ga Hàng Cỏ, tàu lắc mạnh hơn và đi chậm lại. Trong lúc thằng Dũng cùng lũ trẻ mới đi bộ đội thò nửa mặt ra ngoài cửa sổ ngắm phố xá san sát hai bên thì lão mặc dầu chưa ra Hà Nội bao giờ, mặc dầu trăm thứ lạ lùng đang bày ra chung quanh, lão cũng không muốn để con mắt đi đâu ngoài đứa con. Lão nghĩ: hễ đến khi tàu dừng hẳn là mình cũng phải xa nó hẳn. Lão thế mà yếu đuối.

    Gần một đêm một ngày ngồi tàu chung với đám thanh niên tòng quân, lão chỉ toàn khoe đứa con. Đến nỗi người chịu chuyện, một đồng chí thượng úy làm nhiệm vụ đưa hai toa tàu chở tân binh từ miền trung ra, cũng phát sốt ruột vì lão. Lão kể lể bao nhiêu thứ chuyện về cái thằng Dũng với một nỗi tuyệt vọng: không bao giờ bộ đội người ta có thể hiểu hết giá trị của con lão, một cái máy cực tốt sản xuất ra bao của nả nhà lão. Thế vậy mà vợ chồng lão đem trao cho bộ đội quách. Thế vậy mà vợ chồng lão lại lấy đó làm điều vinh dự, sung sướng.

    Nhưng mà tiếc, nhưng mà nhớ nó lắm! Chao ôi, từ nay sẽ không bao giờ được trông thấy cái dáng nó đứng trong rừng, ưỡn người về sau, tay nâng lưỡi rìu lên quá đầu, một tiếng "chóc" của lưỡi thép chém ngập vào thân gỗ đã tan đi rất lâu, vậy mà không có gì xóa đi được những khoảng da thịt tươi non ướt đẫm mồ hôi in vào lá cây, in vào cõi im vắng của rừng sâu. Nó là đứa con trai làm việc khỏe lại thành thạo nhất trong bốn đứa con lớn nhất của nhà lão. Là đứa con có mặt ngay bên cạnh lão, khi có đứa hiếp ức lão.

    Xì, làm việc gì mình chỉ nên nghe mình là hơn cả! Sau ngày vợ chồng lão trả miếng đất linh thiêng lại cho thần làng sau cái vụ có đứa đốt nhà lão, một cô y tá đứng trước thềm trạm xá xã phát thuốc ngừa thai cho đám đàn bà đi khai hoang, đã đưa bàn tay vỗ vỗ lên vai vợ lão: "Chị Huệ, chị đẻ ít thôi, ba cháu là đủ rồi!".

    Đủ sao được? Dù vợ không muốn, lão cũng bắt vợ phải đẻ. Đẻ rồi nuôi, sợ gì? Cái kho người nằm trong bụng vợ chứ có ở đâu xa? Đã dám bỏ làng bìu ríu nhau lên sống giữa chốn rừng thiêng, hoang vắng, đi hàng nửa ngày không gặp một người, thì phải có thêm người chứ? Không có thật đông người làm sao dọn hết đá? Làm ra con người khó đếch gì?

    - Cũng chẳng phải dân đi trang trại mà dân ở làng cũng vậy, chú Định ạ. Cái cô y tá khoa sản ở trạm xá xã ta, hắn nói vậy chứ hắn cũng đẻ khiếp lắm! ở nhà quê mình, nhà nào đông con mới có uy thế được...

    - Cậu nói cái gì lạ vậy hử? - Tự nhiên ông chú nổi giận - Cậu định phá cái nước này đi đấy hử? Tung ra bao nhiêu cán bộ y tế để vận động sinh đẻ có kế hoạch, nói đến rã bọt mép. Khéo, khéo cậu đang tuyên truyền phá chính sách đấy. Cậu phải thay đổi cái đầu óc đi!

    Định hiểu những vấn đề trầm trọng của phát triển dân số trên toàn thế giới và trong nước mà lão Khúng mù tịt. Lão không cãi, chỉ đưa mắt ngắm cái gian nhà bằng cái lỗ mũi của ông chú với một cái gác lửng xếp tú ụ những đống chăn, gối mà đêm qua lão phải ngủ trên đấy, suốt đêm mót đái lại thèm thuốc lào mà cứ phải nằm im, ho khạc một cái cũng sợ làm tỉnh giấc nhà hàng xóm.

    Tự nhiên hăng lên, lão xòe năm ngón tay khẽ khàng quắp vào khoảng xương đầu gối ông chú:

    - Nhưng cháu xin hỏi: cả một đời chú, đã bao giờ chú phải dọn đá, trồng cây và làm nhà chưa, hay chỉ ăn lương và ở nhà của Nhà nước? Đã bao giờ chú phải chịu những đứa chung quanh cậy đông hà hiếp mà phải cắn răng chịu chưa?

    Định cười ha hả:

    - Cứ như cái ngày đi B ghé vào chỗ cậu, cũng khó mà tin được vợ chồng có thể trụ lại ở đấy được thực.

    - Tôi trụ lại được là nhờ có bầy con sau này lớn lên.

    - Cũng phải nói cho thỏa đáng, về sau có thêm nhiều bà con lên nữa chứ? Cũng phải nhờ có cái tập thể dựa vào nhau nữa chứ?

    - Cũng có khi tối lửa tắt đèn. Thực là thế. Nhưng đã có thêm người là có thêm ganh ghét nhau, thậm chí thù ghét nhau. Chú có biết tại sao lão Hòe từ ngày lên khai hoang trở thành thù ghét với tôi không? Do là ngay từ ngày đầu, trong bụng lão đã ngầm ức với tôi vì mấy khúc xương của một con lợn lòi bắn được ngoài rừng. Đều muốn nấu một nồi cao toàn tính cả, cả lão và tôi đều muốn lấy. Vì tôi mạnh hơn thế nên tôi lấy được.

    - Thì chia nhau có hơn không?

    - Nói như chú!

    Chai rượu hết. Khuôn mặt ông khách vẫn như thường, chỉ có hai con mắt hơi gợn những vằn đỏ. Từ đầu bữa đến giờ lão mới nhấc đôi đũa gắp một khúc xương rán cháy cạnh nhưng rồi lại thả xuống, nhón trên đầu đũa một trái ớt đỏ tươi chẻ tư như một bông hoa trong cái thẩu dấm, đưa lên miệng. Lão nhấp ngụm rượu cuối cùng. Vị cay chua truyền đi khắp người lão. Lão cầm chiếc khăn mặt bông trên đầu gối, lau hai con mắt ươn ướt và đến bấy giờ lão mới nhận thấy những câu chuyện với ông chú từ đầu bữa đều là chuyện tào lao cả.

    Lão lại trở về với cõi lòng sâu thẳm và mỗi ngày một khép kín của đời lão. Phàm con người ta ở đời, có cái gì hơn người, sướng vì nó mà chuốc lấy cay chua cũng vì nó? Vợ lão đẹp thực. Chả là cái thá gì cả, chẳng phải chủ tịch, bí thư, cũng chẳng phải điển hình chăn nuôi hay vệ sinh, chỉ vì một con vợ đẹp mà suốt đời lão nổi tiếng. ở dưới làng hay lên trại, lão đều có nhiều người biết tên. Có nhiều công việc phải lên xã hay ra ngoài hợp tác, lão nói rã bọt mép không xong, nhưng mụ Huệ vấn chiếc khăn xanh lên đầu, đi là xong. Trong số chín đứa con - tẻ, nếp lẫn vào cũng có. Lão biết. Nhưng cũng đừng một kẻ nào nên nghĩ rằng có thể dễ bờm xơm được với vợ lão. Giới chức việc chẳng ai lay chuyển được vợ lão, tuy rằng "cái đám dân đi cày ngồi bàn giấy ấy" - như lão thường gọi - cũng "lãng mạn" ra phết. Có một anh theo đuổi vợ lão từ khi còn là một nhân viên coi kho của hợp tác xã cho đến khi leo lên đến cái chân kế toán trưởng, rồi phó chủ nhiệm hợp tác xã, từ khi còn là một anh chưa vợ đến tận khi đã vợ con, gần như vợ lão có tà thuật sai bảo là phải nghe, vậy mà suốt đời chỉ một lần, được nắm cái cổ tay của mụ Huệ chừng một phút.

    Chán vạn người quyền thế, chán vạn kẻ phong lưu, đẹp mã, mụ Huệ đều không mắc, trước sau một mực chỉ biết có một người đàn ông là lão; vậy mà một lần, mụ đã mắc với một người, chung chạ và đẻ con với một người khiến cả làng không ai tưởng tượng nổi. Làng nước có thể gọt đầu bôi vôi một người đàn bà khôn ba năm dại một giờ, nhưng lại tha bổng và thậm chí đồng tình với một kẻ đã dám cố ý làm một công việc ngược ngạo.

    Mụ Huệ phải lòng thằng Mới thật là ngược ngạo. Từ trước Cách mạng tháng Tám, người ta thấy thằng Mới - vốn là con hoang của một tay làm mõ trong làng - sống vất vưởng ở đầu ghềnh cuối bãi, theo thủy triều lên xuống để kiếm con ngao, con cá và thường nương náu nơi cổng đền làng. Sau Cách mạng, đáng lẽ hắn được đổi đời, nhưng trong khi tổ chức các đội dân quân cũng như các đoàn thể cứu quốc, người ta quên không gọi hắn, vả lại hắn còn nhỏ. Sau kháng chiến, Mới đã hai mươi tuổi, cũng là một điều lạ lùng, trong những năm bom đạn, hắn vẫn bám lấy cửa lạch và cái cổng đền đã bị bom đánh sập, vậy mà không chết. Hắn sắm được một chiếc mảng làm nghề câu biển, cũng có khi chạy sang nghề nông, cứ xam bán, và một lần nữa, trong khi tổ chức hợp tác xã, người ta lại quên hắn, nghĩ rằng cứ để hắn đứng ngoài với một chiếc mảng ghép bằng dăm ba cây bương, hắn chẳng chết đói mà cũng chẳng phát triển lên tư bản chủ nghĩa được.

    Ngày cái nhà của Khúng ở dưới quê chưa cháy, có một vài kẻ trong làng thuê Mới đốt cái nhà dựng trên nền đền, nhưng hắn đã không làm mà còn mách với Khúng. Cũng vì cái ơn ấy mà Khúng cho hắn dựng nhờ cây sào, tấm lưới, có khi động biển, hắn còn được phép kéo chiếc mảng lên dựng vào sau túp nhà bếp của Khúng và nấu nhờ một bữa cơm. Không hiểu sao từ khi thoạt nhìn thấy thằng Mới, Huệ đã cảm mến ngay. Huệ có thể ôm con ngồi ngóng ra ngoài cửa lạch suốt buổi, để xem hắn câu, cái mảng lúc vào gần, lúc ra khơi, cứ lững lờ: hoặc là ngồi nghe hắn kể thói quen từng loài cá, tính nết từng đám mây. Hắn thật hiền, có lẽ hiền nhất làng và có một cái gì đó như một tâm hồn nghệ sĩ - một tâm hồn vô cùng thính nhạy nhưng lúc nào cũng khép kín. Đến bấy giờ thì Huệ đã hiểu vì sao trên khuôn mặt bầu bầu và rám nắng của Mới luôn luôn hiện lên một vẻ lơ đễnh đầy trong sạch gần như ngây ngô, giống như lột cái vẻ mặt của Th - bố thằng Dũng - những lúc Th. ngồi trước những mẩu đá.

    Khoan, đứa con vụng trộm với Mới là thằng con trai thứ tư của Huệ, lớn lên mặt mũi giống Mới như lột - và Khúng, một người cha vốn quý trọng mọi nguồn lao động, vẫn yêu và quý thằng con trai thứ tư, đứa con đầu tiên sinh ra khi vợ chồng lão vừa lên vùng khai hoang, chả kém gì những đứa khác.

    Kể cả cái thằng bé Khoan có khuôn mặt bầu bầu và nổi tiếng hiền lành nhất nhà ấy, dù là gì đi nữa nhưng điều quan trọng là lão đã biết rành rành nó là con thằng Mới, vẫn thuộc dòng máu của một anh dân làng Khơi tầng lớp mạt hạng - nghĩa là, lão đã biết hết cả mọi xuất xứ và nguồn gốc của nó.

    Trong đàn con cái đông đúc mà mụ Huệ đã đẻ cho lão như một nguồn lao động trời cho ấy, chỉ có một đứa- là chính cái thằng Dũng - lão không hề biết rõ con cái nhà ai, không được phép hỏi mụ vợ, cũng không được phép tìm hỏi người khác suốt đời lão, không hề bao giờ lão hắt hủi và bằng tất cả tấm lòng thành thực, lão yêu thương nó, nhưng không bao giờ lão thoát ra được cái nỗi ám ảnh rằng nó mang dòng máu xa lạ với lão. Thằng con ấy, nó là đứa đẹp trai nhất nhà, một mình nó một khuôn mặt, từ con mắt, cái mũi đều như được chạm trổ tinh vi hơn. Nhưng đấy lại chẳng là cái vết thương sâu nhất của đời lão - suốt đời lão mang tiếng lấy vợ thừa người khác, chẳng là vì nó?

    Trưa hôm qua, chia tay với thằng Dũng rồi lão còn quay lại đoàn tàu hỏa đang còn đậu ở trong sân ga một lần nữa, lão khúm núm trước cái anh bộ đội cấp thượng úy: "Đừng để nó phải khổ, đừng để nó phải đói rét, cái thằng Dũng nhà tôi ấy, việc gì làm cũng được nhưng lại khảnh ăn như một đứa con gái nhà thành phố!" - "Biết rồi bố ạ - anh bộ đội dẫn quân chế nhạo lão - vào bộ đội cũng không phải đi đày đâu. Bố cứ yên tâm!".

    Thấy mình phút chốc trở nên y như một mụ đàn bà lẩn thẩn, nhưng lão vẫn cứ quanh quẩn bên cái tàu hỏa có đứa con đang ngồi, hết mua hoa quả lại bánh trái lật đật mang về bắt nó ăn.

    Nửa giờ sau mới có một chiếc xe tải của một đơn vị bộ đội Hà Nội đến đón đám tân binh miền trung vừa ra. Trông thấy thằng Dũng rời tàu bước lên xe, thế là lão Khúng cứ quýnh cả lên. Chẳng biết làm gì trong cái phút chót, lão dúi thêm một mớ giấy bạc vào tay nó khiến thằng bé vừa thương bố lại vừa ngượng với bạn, đến nước nó phải gắt lên với lão trước lúc xe chạy.

    Lão đứng lại một mình giữa cái sân ga Hàng Cỏ đầy những người lạ. Đến bây giờ lão mới đưa mắt ngắm nhà cửa, phố xá Hà Nội và lão sực nghĩ đến những lá thư được gửi đi từ đây - mà suốt gần hai mươi năm nay, cứ một vài năm vợ lão lại nhận được một lá. Đó là những lá thư riêng của vợ, mà lão đã đọc trộm. Những bức thư viết trên một thứ giấy thật mỏng, mà mỗi lần đọc xong, suýt nữa lão đã toan lấy làm giấy vấn thuốc. Nhưng lão không dám, lại đem cất lại như cũ, tận dưới đáy một cái trong xó buồng vợ.

    Mỗi lần nhận thư, bao giờ đêm ấy vợ lão cũng thức chong, đuổi lão ra nhà ngoài nằm, hai ba ngày sau, cứ như một người câm và đối xử với lão như một người xa lạ.

    Dù rằng suốt một đời đã bị lão Khúng biến thành một cái máy đẻ và đến bây giờ đã trở thành một người đàn bà thôn quê thực sự, một bà ké miền rừng thật sự, chắc hẳn Huệ vẫn cất giữ cho riêng mình một chút hình ảnh cuối cùng của cái thời thiếu nữ sống ở thành phố, cùng với một mảnh tình yêu đầu tiên đầy sâu nặng mà thời gian hai mươi năm chỉ có thể càng đào sâu chôn chặt vào tâm khảm.

    Suốt gần hai mươi năm nay người đàn bà vừa gần gũi vừa xa lạ với lão Khúng không hề đặt chân đến một thành phố nào cả, kể cả cái thị trấn lâm nghiệp cỏn con, đìu hiu nằm kề sông chỉ cách nhà dăm cây số, cũng ngại đến.

    Huệ đã gắn bó ngày một chặt chẽ với nhà cửa, nương rẫy, bởi chính chị đã phải cùng với lão Khúng nát óc tính toán, thức khuya dậy sớm, trút mồ hôi và sức lực đến gần cạn kiệt, để có tất cả ngần ấy của một gia đình nông dân đông con.

    Đất đai và cây trái, trong khi con người làm ra nó thì chính nó cũng làm ra con người. Chính Huệ cũng đã trở thành một người đàn bà nông dân với cái tính ky cóp, chắt bóp, tham công tiếc việc, tham của và thậm chí đôi khi còn lắm điều nữa. Hàng xóm, láng giềng sang chơi thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy cặp mắt Huệ nhìn len lén từ trong bóng tối, trong khi trút hàng chục vò rượu giấu trong buồng ra những chiếc bong bóng lợn.

    Hoặc vẫn bằng hai bàn tay con gái thành phố - bây giờ đã đen đúa và sứt sẹo - Một tay bưng bát rượu, một tay cầm chiếc đũa cả ghè miệng một con dê bị trói chặt nằm giữa sân, Huệ đổ rượu vào miệng con vật trước khi cắt tiết nó bằng một con dao nhíp với tất cả vẻ thành thạo.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chừng như đấy là một người đàn bà đã quyết tâm đoạn tuyệt với gốc gác thành phố?

    Nhưng đời sống đô thị - cái niềm mơ ước thật xa lạ cứ mỗi ngày một hiện ra trong lòng những đứa con của Huệ một cách cụ thể, như một tiếng gọi của thời đại, nhất là vào những tháng cuối năm, mùa cà chua, chúng phải đèo những sọt cà chua chín đỏ xuống bán tận dưới chợ Vinh, sáng đi chiều về. Có khi ruộng cà chua chín rộ, hai ba đứa phải đi từ chiều hôm trước và ngủ đêm lại dưới thành phố.

    Những buổi khuya sáng trăng, trong cái im lặng thẳm sâu từ những cánh rừng chung quanh như ùa tràn ra cái sân nề vôi trắng toát trước nhà, đám con tụ tập lại, kháo với nhau bao nhiêu là thứ chuyện đầy hấp dẫn về đời sống ở trong cái quầng sáng điện mà chúng vừa từ đấy trở về. Thế rồi một lần thằng Dũng đã bị lạc trong vùng quầng sáng kia đến những ba ngày. Khi trở về, hắn đã quyến theo về nhà một đứa con gái tóc uốn, Huệ cầm đôi đũa cả quấy cám lợn chạy ra đứng trước hiên nhà bếp, nhìn xuống con đường dốc đất đỏ ối của quả đồi đối diện. Chị nhìn thấy cái đứa con gái ngồi sau gác-ba-ga xe đạp của thằng Dũng, hai chân bỏ lọt vào một bên cái sọt không. Khi thằng con trai thả phanh cho chiếc xe lăn tuồn tuột đến chóng mặt xuống dốc, hắn đã cố ý bắt buộc đứa con gái tuy thẹn đến chết nhưng cũng phải nhắm mắt ôm ghì lấy ngang lưng hắn.

    Về đến nhà, thằng Dũng dựng xe trước thềm, cúi xuống một bên sọt nhặt chiếc ba lô khoác lên vai đứa con gái, còn chiếc túi da có in hình chiếc máy bay cũng của cô gái, hắn vẫn xách trên tay. Sau khi biết bố đang còn bận nhặt đá ở trong Khe Đá Dầu với thằng Khoan chưa về, hắn điềm nhiên dẫn cô gái vào trong nhà bếp, giới thiệu như khoe với mẹ:

    - Đây là cô Thùy Loan, kỹ sư, bạn mới quen của con!

    Trời ơi, một thằng thanh niên miền rừng đi bán cà chua ở chợ tỉnh không biết làm thế nào đã tha về được một đứa con gái có bằng cấp cao sang là nhường kia, xét ra tuy không đẹp bằng thằng Dũng nhưng cũng là một cô gái khá xinh xắn và rất lễ phép, và một điều khiến cho người mẹ phải giật mình là mới thoạt nhìn, Huệ đã biết ngay là một đứa con gái sinh ra và lớn lên ở thành phố.

    Tuy trong thâm tâm Huệ thấy chua xót và đã nhìn thấy một cái gì khập khiễng giữa hai đứa trẻ, nhưng chiều ấy, Huệ tiếp đãi đứa bạn của con trai đặc biệt trân trọng và ân cần.

    Đêm hôm ấy, Loan ngủ với người mẹ ở gian nhà trong, một gian buồng ngủ mà bốn chung quanh cái giường nằm kê đầy những chiếc chum bằng đất nung đựng ngô, đậu, khoai lang khô, những chiếc bong bóng lợn đựng rượu và những lá thư không được trả lời. Nửa đêm về sáng, Loan thức dậy. Trong khi ở nhà ngoài thằng Dũng cũng thức dậy đang tìm điếu hút thuốc lào, Huệ nằm mơ màng chợt nghe thấy chung quanh cái nếp nhà ở miền rừng của mình cứ rộn lên đến chói tai những tiếng kêu rền rĩ của một chiếc xe cút kít đang lên dốc, trong một buổi chiều cách đây gần hai mươi năm...

    2
    Khi thằng Dũng đã hơi lớn, vào trạc mười ba, mười bốn, đến cái tuổi đủ sức quàng một đoạn giây chắp bằng vải cáu đen mồ hôi vào sau ót, tay nâng đôi càng đẩy chiếc xe cút kít lăn bánh, dù đang phơi hàng đống quần áo ngoài sân hay đang mắc bận nấu nướng và xua những con dê ra khỏi nhà bếp, bao giờ Huệ cũng nhận ra được đứa con đi vào rừng đẵn củi đã trở về - qua cái tiếng kêu của bánh xe cút kít, cứ rít lên trong cái trục gỗ. Và lần nào chị cũng cứ ngỡ như lại đến lượt thằng Dũng tha về một người đàn bà tóc tai rũ rượi, hai hàm răng trắng lóa nghiến chặt, lúc há to như thể không bao giờ còn khép lại được nữa, và cái bụng người đàn bà y như một quả trứng khổng lồ đang sắp rạn vỡ.

    ... Lúc bấy giờ mặt trời đã đứng bóng. Con đường xuyên rừng vắng heo hút, không hề có một bóng người. Huệ đang cố lết đi. Quãng đường đèo không dốc lắm nhưng dài quá sức một người đang đau bụng đẻ. Gắng đi thêm một quãng, Huệ lại tìm một cái cây, đứng tựa lưng vào. Chị nắm thật chặt chiếc khăn vuông hoa gói vài chiếc tã lót và một nắm cơm.

    Lên được hai phần ba đèo, thì không đi được nữa. Chị phải ngồi lại bên một gốc cây. Cơn đau mỗi lúc một quặn hơn. Nhìn con đường trườn lên dốc chỉ thấy nắng, từ dưới lên cũng như từ trên phía đầu dốc đổ xuống vẫn chẳng thấy qua một bóng người.

    Thậm chí một tiếng động cũng không có.

    Nỗi thèm khát được gặp người. Không dám ước ao nhiều, Huệ chỉ dám ước từ trên dốc đi xuống một đứa trẻ, nếu nó là con gái thì càng hay.

    Có lẽ mình phải sinh con một mình giữa rừng. Đến cái nước này Huệ chỉ còn ao ước được như người đàn bà trong cổ tích, được một con hổ đỡ cho.

    Giữa lúc ấy, có tiếng xe cút kít vẳng lên ngân nga như tiếng sáo. Rồi Huệ ngó ra thấy một người đàn ông cởi trần, đẩy chiếc xe chất đầy những súc gỗ làm nhà, từ dưới chân dốc đi lên.

    ừ cũng lạ, lúc bấy giờ Huệ đã rút thật sâu vào sau cái gốc cây, không phải gốc cây bên đường mà một cái cây to tận trong sâu, lại có hòn đá bên cạnh che khuất hết cả người, vậy mà Khúng cũng nhận thấy có điều gì lạ, đã dừng xe lại.

    Khúng liền vứt hết những phiến gỗ súc đã đẽo sơ thành hình kèo, cột xuống vệ đường, để lộ ra trên chiếc mê đan bằng tre một lớp than, có lẽ Khúng vừa đốt trong rừng. Người đàn ông lấy tay san đều những hòn than thành một chỗ nằm hơi trũng xuống rồi mới chạy tới đưa người đàn bà lên xe.

    - Đi đâu?

    - Đi đâu cũng được. Cho tôi sinh.

    - Sắp chưa?

    - Ngay bây giờ.

    - Không tính được ngày sinh hay sao?

    - ...

    - Người ở đâu? Sao không có ai đi theo?

    - ...

    Mới đi được một quãng, mặt mũi chân tay Huệ đã đen nhẻm. Mình đang nằm trên một đống than vừa ra lò - Huệ tự bảo - Vẫn còn nóng. Chị cố nép sát vào cái vành mê phía sau để tránh cái nhìn của người đàn ông đang đẩy xe. Chị xốc lại quần áo và lựa một thế nằm, co mình như con tôm.

    Lên gần tới đỉnh đèo, những đau thắt lấy ngang người. Và Huệ cảm thấy một cái gì vô cùng riết róng, dữ dội và thảm khốc, trong những vòng quay dưới lưng. Những vòng quay cứ xiết lấy chị, không có cách gì cựa quẫy ra được nữa. Nó là cái gì vậy? Đang giữa nư đau, Huệ không biết cái gì, cũng không nhìn thấy mà chỉ cảm nhận được qua cái âm thanh ken két lúc rộ lên, lúc như nén lại để rồi lại kêu rộ lên to hơn, não nề và riết róng hơn - của chiếc bánh gỗ to kềnh càng quay lử khử trong một cái trục cũng bằng gỗ.

    Sang tới bên kia sườn đèo, Huệ nhìn qua vạt áo cánh trùm trên mặt, thấy một nền trời chiều xanh nhạt hiện ra sau một bức thành mầu xanh sậm kết bằng chỏm rừng kéo dài và cứ như đang dâng cao dần lên mãi. Từ trong khoảng cao xanh, lại chập chờn vọng xuống một thứ âm thanh vi vút, bay bổng. Lắng nghe một lát, Huệ mới nhận ra được cái tiếng sáo diều ngân nga vừa chợt nghe, chính nó vẫn là cái tiếng kêu của những vòng quay ở dưới lưng.

    Quằn quại mãi trên chiếc xe cút kít như một tên tù binh vừa rơi vào bàn tay tàn bạo của một thổ dân, đến gần tối thì Huệ sinh. Đứa bé ra đời trên dọc đường, trên tay Khúng.

    Một tháng sau khi đẻ thằng Dũng, Huệ nhận lời lấy Khúng với một điều kiện: Không bao giờ Khúng được hỏi chị về quãng đời về trước, cũng như bố thằng bé là ai, không được hỏi dò la về người đàn ông ấy - mà Huệ chỉ cho Khúng biết là một người rất tốt, một trí thức vào bộ đội, cho đến giờ chị vừa thương hại vừa căm giận nhưng vẫn yêu và là người quê cùng thành phố với chị.

    Cái anh chàng nông dân lêu têu có đầu óc thích nổi tiếng chấp nhận các điều kiện ấy với tất cả sự thất thiệt nặng nề của một anh trai tân, để đánh đổi lấy một cô vợ rõ xinh đẹp, nhất là, một cô gái thành phố chính cống.

    Hắn vênh cái mặt lên mà thách thức với cả làng: "Đi suốt mấy làng này, từ dân làm nghề biển cũng như dân trong đồng, thử hỏi có thằng nào lấy được vợ thành phố như tao - cái thằng Khúng ngất ngưởng này?" Hắn đổ hết sức ra làm như trâu, mỗi ngày một chuyến xe than lẫn gỗ súc về bán cho đám dân biển. Bằng mồ hôi của hắn, hắn đã cứu được hai mẹ con Huệ. Cả hai tưởng sẽ chết sau kỳ sinh nở: mẹ bị phù thũng và đứa con vừa sinh ra đã sài đẹn.

    Cả làng chửi Khúng chẳng còn thiếu câu gì nữa. Cái thằng dám cả gan đem về cái nơi thờ thần làng một con đĩ chửa hoang hắn nhặt được ở xó rừng nào...
    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]
    Cái lần thằng Dũng đi bán cà chua về, nó đã làm được một việc y như lão Khúng đã làm gần hai mươi năm trước đây, chính Huệ cũng không khỏi sung sướng và tự hào, khi thấy một cô gái có học thức và vốn xuất thân con nhà thành phố đã chịu theo đứa con trai đầu lòng của mình về nhà. Điều đó khiến cho Huệ cũng phải lấy làm lạ lùng, như một sự lặp lại của số phận con người.

    Sáng ngày hôm sau, Loan, cô kỹ sư được Dũng và bà mẹ dẫn vào trong Khe Đá Dầu - một khu vực khai hoang thứ hai mà lão Khúng và thằng Khoan đang dựng chòi ở - để đốn cây và nhặt đá.

    Lão Khúng đã bắt đầu phải tính toán về đường xa, khi mà những đứa con trai và con gái của lão phần nhiều đều đã lớn, cần hỏi vợ gả chồng, làm nhà riêng và cũng phải tìm đất cho chúng sống. Đầu óc của một người nông dân bao giờ cũng nghĩ đến cuộc đời mai sau của con cái. Chính vì lẽ thế mà cái tay chẳng lúc nào được rảnh, chẳng lúc nào ngơi mó máy trong đất.

    Đất trong Khe Đá Dầu còn tốt hơn đất ở ngoài chỗ hiện đang ở - làm lão Khúng cứ mê đi, như đã nhìn thấy trước cái sự thịnh vượng của đời con cái - chỉ hiềm nỗi, lão chẳng biết có ai đem giấu cái gì bên dưới mà sét đánh luôn, hễ có giông là có sét.

    Lần ấy, Loan ngủ lại thêm một tối trên chiếc chòi của gia đình Dũng dựng trong Khe Đá Dầu. Sáng ngày hôm sau, Dũng dẫn cô đi tiếp một buổi nữa mới vào đến một dãy lèn đá mà những người khai hoang thường gọi là "lèn địa chất", ở đấy, Loan trình giấy giới thiệu và nhận công tác ở một đội thăm dò địa chất. Hàng trăm công nhân và kỹ sư đã có mặt ở đấy từ những năm vùng này còn bị máy bay Mỹ đánh phá rát. Công việc thăm dò càng được ráo riết xúc tiến khoảng vài ba năm nay - ngoài các kỹ sư người trong nước còn có các kỹ sư nước ngoài.

    Trong các bức thư của Th. mà Huệ vẫn trân trọng bí mật cất dưới đáy một cái chum, không có bức nào mà Th. không nói qua về công việc của anh ở Hà Nội - một công việc liên quan mật thiết và có tính quyết định đối với công việc thăm dò đang tiến hành ở đây, cả những chuyến máy bay chụp ảnh thỉnh thoảng bay qua vùng khai hoang cũng nhằm mục đích ấy.

    Có thể nói rằng suốt cả đời mình, Huệ sống ở đây để chờ đợi một thành phố sẽ ra đời, không phải một thành phố buôn bán và tiêu thụ, mà là một thành phố công nghiệp của hàng vạn công nhân khai thác mỏ quặng của một thứ kim loại quý. Huệ biết rằng đến lúc đó, đời sống con người và thiên nhiên chỗ này sẽ hoàn toàn khác bây giờ, con người sẽ không còn bị bưng bít bởi sự hẻo lánh nữa và đứng ở đây, người ta có thể nhận được những tin tức của mọi nơi.

    Một đời người thật ngắn ngủi, Huệ biết đời mình chưa chắc đã trông thấy mặt mũi cái thành phố tương lai được xây dựng trên vùng đất do bàn tay vợ chồng chị đang khai phá, nhưng chị tin nhất định dù sớm muộn nó phải có, nhất định một thành phố công nghiệp sẽ mọc lên trên mảnh đất hoang dã này. Những đứa con của chị chẳng phải mơ ước và đi tìm kiếm cuộc sống đô thị ở tận đâu xa, mà ở ngay trên miếng đất chúng đang đứng. Vợ chồng Huệ tổ chức đám cưới cho thằng Dũng vào tháng ba thì tháng chín người con trai đi bộ đôị. Có một lá thư của Th. - một bức thư rất quan trọng - vừa gửi về mà lão Khúng chưa được đọc. Huệ nhận được bức thư cuối cùng ấy chỉ trước ngày thằng Dũng bước chân ra đi dăm hôm và chị cứ đắn đo mãi có nên đưa cho con xem hay không? Th. báo tin cho Huệ biết anh đã được Chính phủ chỉ định làm tổng công trình sư của cái công trình công nghiệp đồ sộ sắp bắt tay xây dựng vào đầu sang năm, và nay mai anh sẽ thường xuyên có mặt ở tại thị trấn lâm nghiệp, cùng với những bộ phận đầu tiên của bộ máy điều hành của mình. Cũng như những lá thư trước nhưng lần này bằng giọng tha thiết hơn, van nài hơn, Th. xin Huệ hãy quên mọi chuyện cũ và tha thiết đề nghị được gặp Huệ và con. Dù như Huệ nói, bây giờ Huệ đã trở thành một người đàn bà khác hẳn trước kia và đứa con trai không còn là con của anh nữa, thì anh cũng tha thiết xin được gặp.

    3
    Khách cầm đứng đôi đũa son gạt hai nhát từ hai bên mép vào giữa rồi buông đũa. Chiếc bát ăn cơm đặt rìa mâm vẫn chỉ bốc lên hơi men.

    - Cháu đủ!

    Trong lúc chống gối đứng dậy, lão Khúng cúi xuống chiếu nhặt chiếc khăn lau mặt, chợt nhìn thấy khuôn mặt của lão và khuôn mặt Định gần như kề sát nhau, phản chiếu trong cánh cửa gương của chiếc tủ đứng.

    Con người ta cùng một dòng máu mủ mà khác nhau biết chừng nào? Cái ý nghĩ như một kết luận không phải hình thành một lúc trong cái đầu óc nông dân bảo thủ đầy sắc sảo của người cháu, mà ban đầu lão thấy khuôn mặt người chú trong gương như một điều chứng thực cho một cái nhận xét bất chợt nhưng rất quan trọng của lão, trên dọc đường chiều hôm qua lão đi một mình từ ngoài ga Hàng Cỏ về nhà Định.

    - Những cái anh dân thủ đô Hà Nội này - lão đạp những bước như vồ nện xuống mặt nhựa vừa gật gù nghĩ một mình - sao mà người nào cũng y như ngâm lâu ngày trong bể nước mới vớt lên? Da thịt người đâu mà cứ trắng nhợt, mà người nào người nấy cứ mềm oặt, mềm như sợi bún, từ cái ngón tay đến sợi tóc đều mềm, tiếng nói cũng mềm, dáng đi điệu đứng lại càng mềm, nhất là cái tiếng cười lại mới thật là mềm chứ?

    Lão đảo mắt nhìn sang những đứa con của chú ngồi quanh mâm rồi nhìn kỹ vào một bên tai chú:

    - Mự này - lão vừa nói vừa giơ tay đón lấy chiếc điếu cày mà vợ Định vừa chạy sang nhà hàng xóm mượn về - mự không biết chứ, chú Định càng về già càng giống nội cháu ngày xưa. Giống lắm cơ! Cả những sợi lông loăn xoăn từ trong lỗ tai mọc chìa ra. Ông cháu ngày xưa cũng thế, nhưng còn rậm hơn cơ!

    Định ngẩng lên. Bất giác Định cũng bắt gặp cái mặt mình bên mặt người cháu - như càng làm nổi bật cái mầu nước da tai tái và rám nâu như da thuộc, với những đường nét gãy khúc đầy khắc khổ, với những khoảng lồi lõm y như những tảng đất cày đắp lên, và từ sau hàng lông mày rậm rì và cứng, lúc nào cũng chiếu ra chung quanh một cái nhìn ngang bướng và đầy ngờ vực.

    Tuy chú cháu nhưng so tuổi tác, Định chỉ hơn Khúng vài tuổi. Nhưng cứ nhìn mặt, ai cũng phải nghĩ Khúng già hơn - như một bậc bề trên trong gia tộc. Ngày xưa bố Khúng - ông anh cả của Định - chẳng được học hành mấy, mười lăm tuổi đã phải ở nhà đi cày. Mà cũng nhờ thế Định mới được theo học đến thành chung. Nhưng đến đời Khúng và những đứa con của Định thì cái sự xa cách mới thực là xa cách. Quanh một cái mâm cơm gia đình mà như người từ hai thế giới họp lại.

    Chao ôi, có lẽ cho đến nhắm mắt, riêng đời Định vẫn còn mắc một món nợ không bao giờ trả được, là món nợ với Khúng và bố mẹ Khúng, và nói chung, với những người thân thích, ruột rà ở làng. Làng anh, cái làng Khơi nửa biển nửa đồng, sỉa chân từ trên tàu hỏa xuống, phải đi gần chục cây số về phía biển mới thấu và chỉ có một cách cuốc bộ ấy, nó có một sức nhai người ghê gớm. Nó nghiền nát những con người ra rồi vắt nặn theo cái hình thù đã có từ nghìn đời của nó, rồi bắt những con người ấy phải sống theo cái luật cũng đã có từ nghìn đời nhưng không bao giờ viết thành văn của nó.

    Hàng chục năm nay cũng như từ nghìn đời, bao nhiêu thứ giặc ngoại xâm đến đây đều bị chết gục trong cái làng quê hiền lành một mầu xanh rì ấy, nhưng cũng hàng chục năm nay, những điều biến đổi của cách mạng đến được đấy cũng mới chật vật, khó khăn làm sao? Vẫn biết rằng trong làng đã có hợp tác, đã có một khu trường cấp hai hai tầng xây trên một khu đất thoáng mát xung quanh trồng phi lao; nhà trạm xá, lại rạp chiếu bóng, một làng mà có cả một rạp chiếu bóng nằm giữa cánh đồng muối bên con đường quan. Tuy vậy, cái làng nó vẫn là cái làng, vẫn là cái làng quê thân yêu và lâu đời của Định, mà một lần ban đêm hành quân giữa rừng Trường Sơn, chỉ nghe một giọng nói người làng lên trong hàng quân đi ngược chiều, Định đã phải kêu lên một tiếng xiết bao mừng rỡ, và chính tiếng kêu của anh đã khiến một cái bóng người khoác súng từ hàng quân bên kia nhảy bổ sang với anh.

    Nói gì thì nói, trong hàng chục năm nay người cháu đang ngồi trước mặt Định kia và đang xì cả nước điếu ra nhà Định kia, cũng chính là người đã gìn giữ phần mộ của bố mẹ và ông bà Định. Chứ như cái đám con của Định thì đừng hòng, chúng có học thức nhưng rất ít tình cảm họ hàng làng mạc. Mà tình cảm họ hàng làng mạc thì Định không muốn đánh mất.

    Và chê trách gì thì chê trách, với bao điều có thể chê trách, Định vẫn quý và khâm phục cái người cháu. Khi Định ở trong B ra, - sáu năm sau - anh đã được nhìn thấy, thay vào cái "ổ gấu chó" là một nếp nhà gỗ rất khang trang đứng giữa một vùng đất bát ngát cứ xanh um lên, không phải mầu xanh hoang dã của rừng nữa, mà là lạc, mía, chè, mít, bầu bí, và xa xa, dưới chân đồi trước nhà là lúa, lúa đang vào chắc... và bộ đội đang mắc võng ngủ đầy nhà trên, anh nuôi nấu cơm trong chiếc chảo gang dưới bếp, trong khi ấy, những đứa con của Khúng lớn vổng lên, còn Khúng thì đã trở thành một ông già, sáu năm ở chiến trường không làm Định già nhanh đến thế.

    "Chú! Vậy mà mấy lần cháu nằm mơ thấy... chú chết!" tình máu mủ khiến Khúng mừng rỡ cứ cuống quít cả lên khi tận mắt trông thấy Định từ trong Nam đã trở ra thực.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Định đi sau ông cháu. Định phải trực tiếp sắm vai kẻ hướng dẫn mua bán cho Khúng - y như một vài lần anh phải hướng dẫn khách nước ngoài.

    Khốn khổ, công việc này đáng lý Định có thể giao cho lũ con, nhưng Định thấy dù một đứa nào chu đáo đến đâu cũng sẽ để xảy ra sơ xuất, trong cái công việc hướng dẫn Khúng đi thăm thú các thắng cảnh và mua sắm. Cả đời người cháu ruột của Định mới ra chơi Hà Nội, Định không thể để sơ suất, xuất phát từ một tình cảm sâu nặng và cả sự kính trọng của Định đối với người cháu tộc trưởng.

    Từ sáng tới giờ Định đã đưa ông cháu đi dạo qua một số di tích và thắng cảnh của thủ đô, nhưng xem chừng vị khách quý chỉ thích ngắm nương ruộng, gia súc, những cái suốt đời chung sống với lão! Đặc biệt trong khi đứng trước Bờ Hồ, lão đã phát biểu cảm tưởng một cách thực thà. Rằng so với bức tranh treo ở vách nhà lão thì cái tháp Rùa thật không giống cái tháp Rùa vẽ ở nhà lão!

    Nhưng chỉ khi đến trước cửa chợ Đồng Xuân thì lão Khúng mới cảm thấy thực sự đã đến Hà Nội. Lão tủm tỉm cười một mình trong khi liếc qua một đám con gái mặt hoa da phấn, nhưng cái chúng đang xách trên tay thì vẫn là cái quá tầm thường: hũ nước mắm dúm muốn, mớ rau, con cá... Thì hóa ra cái đám người ẻo lả như ngọn cỏ may này cũng không phải chỉ đi dạo, mà cũng phải ăn uống. "ấy, ai sinh ra cái ông trời kể cũng tài thực - lão Khúng vẫn tủm tỉm cười và bất giác nghĩ - Ông trời làm ra con người "bách nhân bách tính" nhưng ông trời lại khéo cho con người một cái nết mà ai cũng phải có: Đó là cái việc ăn. Hóa ra cái anh dân Hà Nội này cũng phải ăn. Cho nên mới sinh ra cái chợ Đồng Xuân này to như thế!".

    Hai tai lão chẳng mấy chốc đã ù đặc vì tiếng ồn. Mắt lão cũng hoa lên vì trăm thứ hàng hóa chất đống. Đã từng leo hết quả núi này đến quả núi khác, vậy mà mới loanh quanh trong chợ, cặp giò như hai cái trục bánh xe của lão đã mỏi là sao?

    Để tránh khỏi mất cắp, Định bắt Khúng trao gói tiền cho mình giữ. Mua thứ gì, anh tự đếm tiền trả. Mà những thứ ông cháu muốn mua thì nhiều lắm. Cái gì Khúng trông thấy, là thấy ở nhà mình cần. Mà cái gì cũng rẻ hơn ở nhà một giá. Thế mà nào lão có biết? Suốt đời lão chỉ chúi mũi vào hòn đất.

    Khi bước ra trước vòm cuốn cửa chợ, hai chú cháu nhà ấy đã y như hai nhà phi công vũ trụ. Thế mà vẫn thấy còn một đám người chạy theo dúi vào tận ngực họ đủ mọi thứ khiến lão Khúng cứ đứng cười ngất.

    Chỉ trong một ngày lão đã khuân về bày lủng ngủng khắp gian nhà "hẹp bằng cái lỗ mũi" của ông chú nào vành, khung và lốp xe đạp, xanh, nồi, hàng mấy yến hành làm giống, hạt cà chua và hạt bắp cải giống, và quần áo cho đứa lớn, đứa bé, cho vợ...

    Nhưng đấy cũng chỉ là mấy thứ vặt. Trong chuyến đi ra thủ đô lần này lão đã rắp tâm từ ở nhà một ý đồ lớn hơn nhiều. Lão sẽ tập trung tiền mua một bộ trục, vành và xăm lốp ô tô, để "lên" một cỗ xe trâu! Việc này lão đã viết thư cho Định biết từ năm ngoái: Nhà lão phải tiến lên vứt bỏ chiếc xe cút kít. Nó là thứ phương tiện chuyên chở quá cổ lỗ, mà tốn sức! Loài người đã bước sang "thời đại tên lửa" rồi cho nên sau chuyến đi này, nhất định gia đình lão phải có một cỗ xe trâu để chở đá trong Khe Đá Dầu này, chở lúa thóc ra chở phân gio vào trong ấy này, rồi chở gỗ lạt trong rừng ra, hoặc cũng có thể những ngày giỗ tết cả nhà lão leo lên ngồi trong cái thùng xe để về quê...

    - Đừng chế nhạo anh, các em ạ! - Lão nói với lũ con ông chú đang vừa cười nhăn nhở vừa giễu cợt lão - Các em đã từng biết cái tiện lợi của ô tô và tàu bay so với chiếc xe đạp, vậy như anh, suốt đời đẩy xe cút kít, thì một chiếc xe bánh lốp có ổ bi với con trâu kéo, đã là ô tô, tàu bay rồi đấy!

    Ba bốn ngày sau, cả mấy bố con Định tỏa ra lùng sục khắp các phố ngóc ngách của Hà Nội. Họ tìm được đầy đủ một bộ đồ để "lên" một cỗ xe trâu, nhưng khi đến giá cả, thì mới thấy là cả một số tiền lớn. Không phải một lúc mà Khúng có thể dứt ra khỏi nương ruộng để đi Hà Nội - Định nghĩ thế cho nên anh bàn với vợ bán chiếc đài cùng vài thứ lặt vặt, đập vào số tiền mua sắm còn lại của Khúng, góp phần "đầu tư vào cuộc cách mạng kỹ thuật" trong nền sản xuất của gia đình người cháu ở trong quê.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vào một buổi chiều ngày chủ nhật, trước khi ra tàu hỏa để trở về, Khúng nói với Định:

    - Cháu phải tranh thủ đi đến nơi này...

    - ừ, ừ để chú đưa đi ngay! - Định đáp.

    Khúng nói rằng mình cần phải đi đến "cái nơi này" một mình. Lão mượn bộ quần áo đại cán của Định, mặc vào. Nhưng vừa đi ra đến cửa lão đã quay lại, cởi giả bộ quần áo đại cán cho Định. Vẫn đánh cái bộ quần áo vải thô nhuộm nâu, đi ra ngoài phố được một quãng, lão gọi một chiếc xích lô bảo đưa đến một cái địa chỉ trong thành phố. Đấy là một cái địa chỉ với những con số lẫn hàng chữ viết trên đầu phong bì của những lá thư giấy pơ-luya, trong nhiều năm nay vẫn xếp chồng lên nhau dưới đáy một cái chum.

    Đến lúc này, lão Khúng đã quyết định xé bỏ cái thỏa ước đã ký với vợ hai mươi năm trước.

    Người xích lô đổ lão xuống trước một ngôi nhà sáu tầng mái bằng ở đầu hồi có chữ B4. Có lẽ đến gần một tiếng đồng hồ, lão Khúng cứ quanh quẩn chung quanh giải bờ hè chân tường, rảo bước đi vòng quanh ngôi nhà hết vòng này đến vòng khác đến mỏi rũ cả chân: " Rõ nhà với cửa, cứ y như một cái hộp sắt tây đậy kín mít, nghe bên trong nhạc xập xình như có đám cưới, lại thấy các tầng quần áo đang phơi, lại thấy cả những cái mặt người ló ra y như một lũ chim bồ câu đang gù trong cái chuồng: có người ở chứ không phải nhà đi vắng hết, vậy mà tìm mãi vẫn chẳng thấy cổng ngõ ở đâu cả!".

    Lão lại tốn một tiếng đồng hồ nữa để đi lạc lung tung ở bên trong, hết leo lên tầng thượng đỉnh lại lộn xuống tầng dưới cùng, rồi lại được chỉ dẫn phải leo lên... " ừ cũng lạ, sống như thế này mà cũng sống được, chẳng có vườn tược, chẳng cây cối, ăn, ở chồng chất lên đầu nhau, chỉ thấy tường và tường, chả trách người nào người nấy cứ trắng nhợt, nói khẽ, cười khẽ, đi khẽ, là phải!...".

    Lão đã bắt đầu ngột thở, khi đứng trước cửa gian phòng đang định tìm. Mới đặt một bàn chân lên tấm cói chùi chân, lão đã chợt nhìn thấy thằng Dũng nhà mình - đến hôm nay đã ăn mặc quần áo bộ đội đang ngồi trong nhà.

    Lão sửng sốt, rụng rời cả chân tay.

    Có lẽ thằng Dũng cũng như lão, lần đầu tiên đến đây và cũng vừa chợt đến.

    Thằng con lão không kịp trông thấy lão, bởi ngay sau đó, tức tốc lão đã quay lưng lại và bổ nhào xuống cầu thang.

    Từ bấy giờ cho đến tối, lão đi lạc lung tung trong thành phố. Những bức tường chi chít và những ngõ phố khúc khuỷu như đang bày trò chơi ú tim với lão, chế nhạo lão. Đèn trong các lùm cây và trong các gian nhà đã bật sáng, mà lão vẫn không sao tìm được lối về. Toàn thân lão run lẩy bẩy như người lên cơn sốt và trong tâm hồn lão tự nhiên dâng lên một nỗi niềm cô độc, lão lẩm bẩm gọi tên từng đứa con. Lão cầu xin đàn con đừng bỏ lão mà đi, mà hãy ở lại với lão, hãy ở lại với đất cát.

    Mười giờ đêm lão mới tìm về đến nhà người chú giữa lúc cả nhà đã tỏa đi tìm các ngả.

    Lão nhất định không kể lại cho Định biết một điều gì. Mặc dầu Định quyết giữ lại ở thêm một ngày nhưng lão Khúng vẫn một mực xin phép vợ chồng ông chú được về.

    Lão vội vã gói buộc đồ đạc ra tàu.

    Quá nửa đêm, tàu mới bắt đầu lăn bánh.

    Khi những luồng gió không có gì cản trở, tự nhiên thổi lồng lên trên nóc và hai bên cửa sổ toa tàu hỏa, trong đêm lão Khúng nhận ra luồng gió man dại quen thuộc, và biết mình đã ra khỏi thành phố, đang trở về với đất cát hồn nhiên và hoang dã...
    [/FONT]
     
  11. 5dola

    5dola Thần Tài Perennial member

    TÌNH MUỘN
    :053::053::053:
    Tôi gặp nàng trong một buổi cùng dự tiệc cưới. Nàng ngồi ở bàn đối diện và tình cờ với một vẻ dịu dàng nàng ngước mắt nhìn tôi. Một sự xốn xang bất chợt trong tôi và có lẽ một sự ngỡ ngàng trong nàng đã kéo hai chúng tôi nán lại chờ nhau hôm đó.
    Và rồi nàng nhận lời trao đổi điện thoại với tôi sau khi cho tôi số điện thoại nhà riêng của nàng. Nàng sống gần như một mình với cậu con trai 6 tuổi,bởi chồng nàng là một nhà ngoại giao luôn đi công tác nước ngoài. Hôm tôi đến thăm nàng thì cậu con trai đã về chơi bên nội.
    Nàng đón tôi với sự dè dặt của người phụ nữ ít quan hệ với bạn khác giới. Chúng tôi chỉ loanh quanh bàn luận về chuyện phim ảnh, tệ nạn xã hội... Nàng trong lúc tiếp tôi đã ý tứ mở toang cửa sổ, tránh những cái nhìn thẳng của tôi và luôn tìm cách lái câu chuyện sang các chủ đề vô thưởng vô phạt. Tôi đã bị nàng chinh phục bởi sự kiều diễm và sự tinh tế ấy. Tôi hẹn nàng sẽ thường xuyên đến thăm nếu nàng không phản đối. Nàng im lặng và ngước mắt nhìn tôi nói khẽ: "Có lẽ chúng ta không nên gặp nhau nhiều... điều đó sẽ không có lợi cho em và anh...".
    Tôi tôn trọng nàng bởi vì chúng tôi đều đã có gia đình và đều hiểu rằng nếu gần nhau nhiều chắc sẽ khó kìm giữ những tình cảm mới nảy sinh mà hai chúng tôi đều mường tựơng tới. Thời gian trôi nhanh, đã gần mấy tháng nay tôi không gặp lại nàng. Mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn hỏi thăm nàng qua điện thoại. Hôm nay tình cờ lại gặp nàng ở bãi biển Cửa Lò.
    Nàng đi cùng chồng và cậu con trai. Chồng nàng là một người đàn ông khá đạo mạo và lịch thiệp. Tôi chào họ rồi vội vàng lao xuống biển tắm để lại đằng sau đôi mắt ngơ ngác của nàng... Tối hôm đó nàng đi dạo một mình trên bãi biển. Tôi nhìn thấy nàng có vẻ buồn và cô độc. Tuy vậy tôi vẫn không dám xuất hiện vì sợ làm nàng buồn thêm... Thời gian trôi mau. Chúng tôi ít gặp lại nhau và cũng ít gọi điện cho nhau.
    Và như không tin vào mắt mình nữa khi tình cờ một hôm tôi thấy trên vô tuyến xuất hiện tin buồn ...Vào hồi ...giờ...ngày .... Bà.....đã qua đời vì căn bệnh hiểm nghèo... lễ viếng vào hồi...ngày ...tháng năm.. Tôi vội gọi điện đến số máy của nàng để khẳng định đó không phải là nàng. Nhưng ở đầu dây kia chỉ có tiếng tút dài vô vọng...
    Rồi tôi dự đám tang của nàng và hôm đó thật ngac nhiên ông chồng của nàng đã đưa cho tôi một bức thư. Tôi run rẩy mở ra xem và tim tôi như thót lại khi đọc dòng đầu nàng viết "anh yêu của em..." Trong thư nàng nói rất nhiều về cuộc sống nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi lại là quan điểm của nàng về tình yêu. Nàng nói người đàn bà khi biết yêu thực sự thì cũng là lúc chẳng còn cơ hội để đón nhận nó nữa. Bởi lễ giáo, bởi văn hoá, bởi quan hệ xã hội.... hay bởi chính chúng ta chưa hiểu gì về tình yêu...?
    Ngày nay, người ta yêu vội vàng, chớp nhoáng nhưng có bao giờ tự hỏi đó có phải tình yêu hay không. Tôi chưa hề được cầm tay nàng nhưng đến bây giờ tôi vấn nghĩ nàng chính là tình yêu của tôi.
    trên thế gian này không có tình yêu VĨNH CỮU..chỉ có sự vĩnh cữu trong tình yêu...
    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/5/12
    Ajinomot, bachho, No MercY and 5 others like this.
  12. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
    .​
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 4 others like this.
  13. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 4 others like this.
  14. 5dola

    5dola Thần Tài Perennial member

    TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC
    &&&
    Tình yêu đích thực là gì? Yêu một người là mong cho người mình yêu được hạnh phúc và Yêu là khi ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong hạnh phúc của người mình yêu

    Thành phố nhỏ yên bình và xinh đẹp có hai người yêu nhau đắm say, mỗi buôi sáng họ đều bên nhau đợi bình minh và những buổi chiều cùng dạo trên bãi cát vàng như vô tận đón ánh hoàng hôn.

    Nhưng một tai nạn kinh hoàng đã chia lìa đôi tình nhân, cô gái bị thương nặng cứ nằm mê man trên giường bệnh không biết đã bao ngày.

    Vào mỗi sáng, chàng trai đều đến thăm cô ngồi bên giường và kiên nhẫn gọi tên người yêu đang thiếp trong giấc ngủ không biết khi nào tỉnh dậy. Rồi khi màn đêm buông xuống, chàng trai tới quỳ trong giáo đường nhỏ của thành phố ngước lên thượng đế cầu xin Người hãy cho cô gái thức dậy với đôi mắt đã cạn khô lệ vì khóc thương người con gái chàng yêu dấu

    Gần một năm trôi qua, người con gái vẫn im lìm và người con trai đã tan nát trái tim từ lâu nhưng chàng vẫn cố gắng cầu xin thượng đế và hy vọng...

    Một ngày kia, thượng đế đã động lòng, Người cho chàng trai đang đau khổ một cơ hội. Người hỏi: "Con có bằng lòng dùng sinh mệnh của con để trao đổi lấy tính mạng của cô gái kia không?" Chàng trai không chần chừ vội đáp: "Con bằng lòng!".

    Thượng đế nói: "Ta sẽ cho người con yêu tỉnh dậy nhưng con phải đánh đổi bằng ba năm hoá thành chim, con đồng ý chứ?" Không chần chừ chàng trai vội đáp: "Con đồng ý!"

    Chàng đã nguyện cầu Thượng đế bằng tất cả trái tim mình.

    Và phép lạ đã xảy ra, chàng trai vụt biến thành chú chim nhỏ rời thượng đế bay vội vã tới bệnh viện. Và bên cửa sổ, chim thấy cô gái đã tỉnh dậy và khoẻ mạnh như xưa! Nhưng chú không còn là người và không thể nói gì với người con gái chú yêu say đắm được nữa.

    Khi người con gái rời bệnh viện, cô rất buồn bã. Cô gái đi khắp nơi hỏi về người cô yêu, không ai biết anh ấy đã bỏ đi đâu. Cô đã dành rất nhiều thời gian tìm kiếm người yêu nhưng nào có thấy anh chỉ có chú chim nhỏ kia thì không bao giờ rời cô luôn bay lượn bên cô, luôn hót líu lo như muốn cô vui vẻ. Cô gái yêu cánh chim nhỏ biết bao...

    Mùa hạ đã trôi qua, rồi mùa thu cũng trôi qua vội vã, đông đã sắp sửa về và gió lạnh thổi những chiếc lá cây lìa cành, chú chim nhỏ không thể không đi về phương Nam tránh rét. Không nỡ xa người yêu, chú tự nhổ trên mình một chiếc lông đẹp nhất và đặt trên vai người con gái chú yêu thương với lời cầu chúc cô sẽ mãi hạnh phúc và xinh đẹp.

    Chớp mắt mùa xuân đã tới, chú chim cuồng bay trở lại thành phố tìm người yêu. Nhưng từ trên cao chim thấy dáng hình thân quen của người con gái xinh đẹp mà mình yêu thương đang tay trong tay một người con trai xa lạ.

    Ai cũng biết sau tai nạn người con gái bệnh nghiêm trọng thế nào, chàng bác sĩ tốt và đáng yêu ra sao, tình yêu của họ đến tự nhiên như thế nào, và ai cũng biết người con gái ấy đã vui trở lại như những ngày xưa.

    Những sáng sau đó, chú vẫn nhìn thấy chàng bác sĩ kia dắt người con gái đã từng là người yêu của mình ra biển ngắm mặt trời lên và chiều chiều lên đỉnh núi nhìn xuống biển hoàng hôn .Chú chim nhỏ chỉ có thể thỉnh thoảng tới đậu trên vai người yêu khẽ hót líu lo như muốn nói với cô gái điều gì...Nhưng những nụ hôn ngọt ngào, những tiếng cười hạnh phúc của đôi trai gái làm chú cảm thấy ngạt thở. Chú đã khóc và vội vã bay đi...bay đi mãi.

    Mùa hạ thứ ba, chú chim nhỏ đã không còn thường đến thăm người con gái chú yêu nữa. Vì trên vai cô ấy luôn là bàn tay mạnh mẽ của chàng bác sĩ và trên đôi môi đỏ mọng kia luôn mang nụ hôn nồng nàn của anh ta! Người con gái không có thời gian để tâm đến một cánh chim đã từng theo cô những ngày trước, cũng không còn thời gian để nhớ về người yêu cũ.

    Rồi ngày cuối cùng của thời hạn ba năm cũng đến, cánh chim nhỏ vội vã bay đến nhà thờ với mong muốn nhanh chóng trở lại kiếp người để có thể đến bên người yêu dấu. Nhưng nhà thờ hôm nay đông qua, nơi đây đang diễn ra đám cưới của người yêu chú với chàng bác sĩ.

    Và chú thấy họ đang hôn nhau say đăm, cô gái thật hạnh phúc và rạng rỡ bên người chồng tuyệt vời của mình. Một lần nữa chú chim nhỏ khóc...Thượng đế liền hỏi: "Con đã hối hận rồi sao?" Chú chim gạt hạt lệ nói: "Con không!"

    Thượng đế hài lòng nói: "Nếu vậy, chỉ còn vài phút nữa con có thể lại trở thành người được rồi!"

    Nhưng chú chim nhỏ khẽ lắc đầu, chú nói: "Xin hãy cho con được làm kiếp chim mãi mãi thưa thượng đế..."

    Cuộc sống là những chuỗi dài của những sự lựa chọn. Sự lựa chọn trong tình yêu không bao giờ khiến ta phải cảm thấy hối tiếc. Vì: Yêu một người là mong cho người mình yêu được hạnh phúc và Yêu là khi ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong hạnh phúc của người mình yêu
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/12
  15. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
  16. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 2 others like this.
  17. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Oan hồn ngõ đá Dốc[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Lê[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi nhớ như in buổi sáng trước hôm xảy ra chuyện, tôi đã cảnh giác bảo thằng Hào:
    - Phải coi chừng thằng cù lần. Nó sắp điên rồi.
    Hào nheo mắt nhìn tôi một thoáng rất nhanh, rồi dõi ra biển, Hào nói lảng sang chuyện thời tiết:
    - Tao đoán oi thế này khéo mai chột giời.
    Ý nó không muốn tôi dây đến chuyện thằng Tú, thằng bạn nối khố của hai đứa tôi. Nhưng không dây sao được. Thế nào gọi là bạn bè? Tôi nói tiếp, gay gắt hơn:
    - Nó đang mù, phải mở mắt cho nó. Không hay ho gì đâu!
    Hào bật cười một tiếng ngắn ngủn.
    - Mày nhất định làm bố trẻ nó đấy? Mày có giỏi đi can nó thử xem!
    Không rõ từ thuở nào Tú đã mê mẩn bám theo cô bé Thơ mồ côi ở vạn chài này. Chuyện chúng nó, tôi tin có bàn tay của giời nhúng vào. Không vậy, ai lý giải được?
    Hai đứa lớn lên cùng ở ngõ đá dốc. Cái Thơ ở với bà ngoại, thằng Tú ở với ông bố ngây ngây ngô ngô từ dạo vợ chết. Hồi Tú còn bé, bà Thạo, bà ngoại cái Thơ thương hại cảnh nhà Tú một bố một con nên thường kéo nó sang nhà chăm nom tiện thể, để hai đứa tha thẩn chơi với nhau đỡ tội. Thơ hơn Tú một tuổi. Ngày bé Tú vẫn nhoen nhoẻn gọi: "Chị Thơ ơi!". Hai đứa quấn quýt nhau như chị em ruột thịt. Con bé mang hết tình yêu bản năng đàn bà mà chiều Tú. Lên bốn tuổi, con bé đã biết ôm gọn Tú trong lòng, bắt chước người lớn vạch áo cho "em bé bú tí'', ru rín Tú mỗi cơn nó hờn dỗi. Lớn hơn chút nữa, cứ buổi chiều con bé lại nắm tay lôi Tú xềnh xệch ra bãi biển tắm táp. Đôi khi Tú chẳng buồn về nhà, hai ba ngày liền ăn ngủ bên bà Thạo với cái Thơ.
    Tôi lại lớn hơn cái Thơ gần hai tuổi. Tôi chưa quên một hôm bắt gặp cái Thơ cho Tú ăn lạc bằng cách đặt những viên lạc luộc giữa đôi môi mím chặt. Thằng bé không được dùng tay, phải há miệng đớp đớp hạt lạc trên môi con Thơ như chú chim con chờ mớm mồi. Mỗi lần con Thơ nguẩy đầu dướn cao cổ lên, Tú lại nhăn nhó nài nỉ:
    - Nào, nào, em ăn hết rồi. Cho em đi!
    Tôi tình cờ đi tới sau lưng nhưng chúng nó không biết. Tôi thấy ghét quá, lừa tát thật mạnh lên đầu con Thơ để chúng vập mặt vào nhau. Chạy xa rồi tôi còn nghe hai đứa khóc ré phía sau. Con Thơ sưng trán bằng quả nhót, thằng Tú môi vều rớm máu.
    Chỉ tới lúc dậy thì, con gái sớm biết xấu hổ, cái Thơ mới bỏ rơi thằng Tú. Vả lại trẻ con xóm chài cứ nhè Tú trêu ghẹo: "Hai vợ chồng là chông vợ hài... " khiến Tú đỏ mặt tía tai, uỵch nhau chí chết. Không mấy khi mặt mũi chân tay nó không xây xước, bầm tím. Từ ấy trông thấy Thơ ở đâu, thằng Tú lỉnh ngay.
    Khi Tú thành một chàng trai lừng lững với những bắp thịt nổi cuộn như chão dưới làn da nâu cháy, tôi chợt phát hiện thằng cù lần đã yêu, mà yêu thật mãnh liệt. Lúc ấy tôi chưa cưới vợ, cũng đang chết điên vì sa vào vạt lưới một cô giáo cấp hai ngoài thị xã. Đêm đến hai đứa tôi hay rủ nhau bỏ nhà ra bãi biển nằm khểnh trên bờ đá, tâm sự vụn. Một lần Tú thú nhận với tôi hay mơ thấy một người con gái ở xóm chài, được ôm ấp cô ta. Nhưng tên tuổi người con gái ấy, Tú không hé lộ.
    Đầu năm ngoái, cái Thơ được người bác họ cho đi học lớp trung cấp nấu ăn trên Hải Phòng. Tú bỏ cả chài lưới, thứ bảy chủ nhật nào cũng giấu tôi, tót lên phố, thậm chí chỉ để nhìn cô bé một thoáng cho đỡ nhớ. Còn Thơ, hình như cô sợ sự săn đón ráo riết của Tú, nhiều bận cứ xua đuổi lẩn tránh, không chịu gặp mặt.
    Rốt cuộc Tú đành phải thú nhận hết với tôi. Nó đau khổ nhưng quyết không chịu lùi bước. Nó nhờ tôi tác động giúp nó một tay. Tất nhiên tôi phải chiều bạn, tuy băn khoăn không hiểu tại sao Tú chọn lựa kỳ cục thế. Đồng ý cái Thơ có duyên, dễ coi nhưng hơn tuổi Tú, sau này vài con với nhau mới thấy rõ sự chênh lệch. Đàn bà chóng già, ai không biết thế. Vả con gái vạn chài mới lớn, mỡ màng như những con cá lanh tươi, lấy thúng đựng không hết, Tú chỉ cần ới một tiếng, khối cô lăn vào xin chết ngay. Đẹp trai, khỏe mạnh, giỏi cá lưới, nhà cửa đàng hoàng, có mỗi ông bố già lẩm cẩm dễ chiều, mặt hàng này thuộc diện a-còng chứ đùa ?
    Một sáng chủ nhật tôi phải đèo nó lên Hải Phòng, tìm tới tận lớp dạy nghề nấu ăn của công ty X., chờ chực, làm thân với thằng cha thường trực mặt mũi đầy mụn, nhăn nhó như người táo bón kinh niên. Tú móc bao thuốc lá ngoại, đưa mời bằng cả hai tay lẫn nụ cười nịnh nọt trên môi.
    - Mời anh xơi điếu thuốc với chúng em cho vui...
    - Cảm ơn, tôi không hút. Yêu cầu các anh cũng đừng hút ở đây, tôi đang ho...
    - Vâng... Sắp hết giờ lên lớp rồi anh nhỉ?
    - Làm sao tôi biết được. Nhưng các anh gặp cô Thơ có việc gì ? Tôi đã nhắn hộ vào lớp, có thấy cô ấy ra đâu ?
    - Chúng em người cùng xóm với Thơ. Bà cô ấy nhờ gửi lên ít ruốc cá cho cô ấy.
    Tú giơ gói ruốc cá lên làm chứng. Món ruốc cá thu này vợ tôi làm cho thằng con mới biết ăn bột. Sáng nay, Tú nằng nặc đòi sẻ một nửa lọ đưa lên làm quà cho Thơ. Vợ tôi không dám từ chối, phải chiều. Thơm rưng rức vậy mà gã thường trực chun mũi làm vẻ khó chịu với mùi ruốc cá, kiểu những ông Tây sợ mùi mắm tôm của dân tộc lạc hậu.
    - Dào ôi, gửi gì cứ để ở bàn. Của này không sợ người ta ăn mất đâu.
    Rồi gã chỉ vào mặt Tú đánh tiếp một câu xanh rờn:
    - Nói thật nhá, tuần nào nhà anh chả tạ sự chầu chực ở đây, tôi lạ chó gì. Nhân tình nhân ngãi cứ nói toạc ra. Sốt ruột ! Khóa trước có một cô xinh nhất lớp, chưa học xong đã bị nó rủ rê lừa bán sang Trung Quốc... Các anh đi sang bên kia cổng mà chờ hộ tôi.
    Cái từ nó chung chung của gã thường trực rất thâm. Chẳng khác gã bảo chúng tôi chính là nó ấy. Tôi chỉ muốn đấm vào mặt thằng cha một quả. Nhưng Tú bấm tay tôi ra hiệu chào thua, rồi hai thằng kéo nhau ngoan ngoãn ra bên kia cổng đứng chờ. Nhìn nụ cười lấy lòng cha tắt ở trên miệng Tú, tôi càng sôi máu hơn. Cứ cười đi, từ nay cậu đừng hòng xui tôi giáp mặt thằng cha thường trực phải gió ấy lần nữa nhé! Cầu sao có lần hắn ra chơi Đồ Sơn, tôi sẽ trả nợ đủ.
    Nhưng sự tình lại xoay sang hướng khác. Bẵng đi một tháng, tôi cùng Tú vào Quảng Trị tìm mộ anh cả tôi, khi về bỗng nghe tin sét đánh. Nó chưa kịp rủ rê đưa sang Trung Quốc thì cái Thơ đã đi đứt với tay giáo viên dạy nghề ở lớp học. Lằng nhằng với nhau hiện cái Thơ có mang, nhà trường mới biết chuyện. Anh giáo sau khi "truyền thụ sở trường'' xong, bị kỷ luật đã trốn mất tăm. Thơ không được học nữa đành vác bụng lại trở về vạn chài ở với bà ngoại.
    Thằng Tú sau một hồi chết đứng như Từ Hải, nó lầm lì bảo tôi:
    - Thôi cũng được. Tôi nhờ ông thuyết phục cô ấy hộ tôi. Phải cưới nhanh trước khi cái bụng ểnh ra, chướng lắm. Ông đã vợ con đàng hoàng, lời nói có trọng lượng, không chả chớt như thằng Hào, chắc chắn cô ấy nghe ông đấy.
    - Nghĩ kỹ chưa ? Nó trót để xảy ra chuyện không hay, bây giờ mày sẵn sàng nhận làm bố đứa trẻ trong bụng nó chứ?
    - Con cô ấy cũng như con tôi.
    - Ông cụ lẫn cẫn đã đành, nhưng họ hàng nhà mày người ta để yên cho không ?
    - Vớ vẩn. Tôi lấy vợ cho tôi chứ lấy cho họ hàng đâu?
    Ngừng một lát, Tú nhìn lảng đi nơi khác, nói nhỏ:
    - Vả tôi vẫn cay lắm. Cô ấy khéo hành tôi đến chết mất.
    Đúng vậy. Dạo này Tú gầy rộc, hai mắt sâu hoắm, nhìn vào chỉ thấy phát ra thứ ánh sáng loang loáng sắc lạnh.
    Tôi đi tìm gặp Thơ. Phải lần ra bãi đá từ lúc mặt trời chưa nhô khỏi chân mây tôi mới thấy cái dáng nhỏ nhắn của Thơ, cô đơn, lúi cúi quanh mấy tảng đá nhấp nhô. Thơ đi đánh hàu bán chợ sớm từ hôm thôi học.
    Thơ không ngờ tôi đi tìm cô, đôi mắt to rất đẹp cứ chớp chớp bối rối, cái chìa hàu giống cái cuốc chim tí xíu chỉ chực rời khỏi tay.
    - Anh tìm em có việc gì?
    - Ra xem cô đánh được nhiều hàu chưa. Đưa anh hộ một lúc. Cô có nhớ nghề này chính anh dắt díu cô với thằng Tú theo không ?
    - Làm sao em đã quên được. Ngày ấy vui quá anh nhỉ ? Mới hơn chục năm mà sao em thấy lâu thế ?
    - Mười sáu năm chứ ít gì. Nhoáng cái sẽ lại đến lượt cu con nhà tôi xách xô ra bãi này.
    - Hôm trước chị bế cháu sang thăm bà em, trông cu Tít kháu thật. Giống bố như đúc khuôn ấy thôi.
    Tôi cầm lấy cái chìa hàu cùng cái ga-men nhôm méo mó trong tay Thơ. Cô vươn người đứng thẳng lên, xoay mình mấy cái cho đỡ mỏi. Tôi liếc nhanh cái bụng mây mẩy của Thơ, chợt ái ngại.
    - Hai bà cháu đã túng, lại sắp thêm một đứa bé, trông cả vào mấy con hàu đủ sống sao được? Có cách tính gì khác không? Anh hỏi thật, đừng giận anh nhé, sao cô không đi quách bệnh viện cho sớm? Cái thằng thầy giáo chết tiệt ấy thực lòng gắn bó với cô đâu mà giữ với gìn ? Nếu vướng mắc, khó khăn không giải quyết được cứ sang bên nhà, bàn với vợ anh một tiếng xem sao. Cô ấy tốt bụng đấy.
    Thơ im lặng.
    Chúng tôi không ai nói gì thêm. Đã lâu lắm tôi lại cầm chìa nạy miệng những con hàu bám trên đá. Tự nhiên tôi thương Thơ đứt ruột. Những khi lủi thủi lần quanh mấy tảng đá này, liệu có lúc nào Thơ nghĩ đến chuyện gieo mình vào lớp sóng lạnh lùng kia không ? Giá tôi là anh ruột của Thơ, chắc tôi sẽ tìm bằng được để bổ thằng chó ấy vài nhát chìa này vào mặt. Bây giờ biết nó đi xứ nào? Tiếc quá, một đời con gái thơ ngây tội nghiệp!
    Lúi húi một lúc, khi tôi ngẩng lên mới biết Thơ đã ngồi lại ở một tảng đá phía sau, đang lấy tay áo lau mắt. Tôi vứt cái ga-men cùng chìa hàu, đi tới ngồi cạnh Thơ. Đây là lúc tôi sẽ phải khuyên cô điều hơn lẽ thiệt. Cứ khóc đi nhưng đừng tuyệt vọng, em ạ! Vẫn còn mọi người chung quanh thương yêu em cơ mà. Hãy đón nhận tấm lòng chân thành của Tú. Hai đứa có cả một tuổi thơ gần gụi quý mến nhau, chắc chắn không ai thông cảm với em hơn nó. Bao lâu nay nó yêu em thế nào, em đã thừa biết. Nó sẵn sàng chấp nhận cả đứa bé trong bụng em, có nghĩa nó bất chấp mọi người, chỉ nghĩ đến em thôi. Vậy em do dự gì nữa?
    Nghe tôi giảng giải, Thơ cứ lặng lẽ khóc. Gặng mãi cô mới lau nước mắt, ngập ngừng trả lời:
    - Em nhờ anh nói hộ với Tú, em không thể chấp nhận. Em rất biết ơn Tú nhưng sống với nhau phải nghĩ chuyện lâu dài. Em hơn tuổi Tú cơ mà... Mệ em cũng vì hơn tuổi bố em mà bị ông bỏ rơi sau khi sinh em. Do đau khổ quá, bà bỏ đi biệt tăm bao nhiêu năm. Làng nước không ai biết cho, cứ trách mẹ em vô tình. Tới lúc chết, mẹ em mới gửi thư về xin bà ngoại tha tội. Không đời nào em lặp lại nỗi đau khổ của mẹ. Giờ em lại trót dở dang, Tú càng không nên theo đuổi nữa. Như vậy cả hai đứa mới đỡ khổ. Cứ để em chống chọi một mình, trả giá cho lầm lỗi của em. Em chịu được hết. Thực lòng bây giờ em chỉ mong Tú có một hạnh phúc trọn vẹn, xứng đáng. Đời Tú quá khổ rồi anh ạ!
    Thơ đứng lên, tới nhặt cái chìa cùng ga-men nhôm, có ý chấm dứt câu chuyện giữa chúng tôi. Đi thật xa tôi mới dám ngoái đầu nhìn lại cái dáng chịu đựng nhẫn nhục của cô bé.
    Sau hôm tôi làm đại sứ về, Tú lầm lì tựa cái bóng. Tôi rỉ tai thằng Hào, xui nó rủ Tú ra mấy nhà hàng ngoài bờ biển giải khuây. Tôi biết rõ ngoài đó các quán vừa đua nhau tuyển mấy em bé xinh như mộng, rất bắt mắt, để lôi kéo khách vào dịp khai trương mùa du lịch. Thằng Hào khì khì cười:
    - Ông xui dại con. Vợ con ác chiến không kém công an một-một-ba đâu. Nháy mắt nó đã lù lù sau lưng. Ông định để con bị đánh dấu vào mông à ?
    Tôi khích Hào:
    - Đồ hèn ! Sợ vợ như sợ cọp, về nhà mặc váy cho xong. Ăn vụng thì học cách chùi mép, khó gì ? Hơn người ở chỗ ấy đấy.
    - Vâng, ông ít sợ cọp, con rước ông đi ra ngoài đó "kiểm tra điền thổ "trước. Xem ông chùi mép kiểu gì, lúc ấy con xin học tập ông.
    Chối vậy nhưng một buổi tối Hào bảo tôi đến nhà rủ Hào đi "tìm mua bộ lưới, chuẩn bị vụ làm ăn mới của chúng tôi''. Như vậy Hào có cớ ra khỏi nhà một tối. Tôi rủ đi, vợ Hào sẽ khỏi lăn tăn.
    Sáng hôm sau nghe tôi hỏi kết quả, Hào cười khẩy văng tục:
    - Thôi nhé, từ nay xin ông tha cho con công tác kích dục gà trống thiến đi. Mất thì giờ với thằng cù lần, lại ngượng cả mặt với mấy con bé nhà hàng Bông Đại.
    - Mày nói sao ?
    - Đưa nó đến nhà hàng ấy yên tĩnh nhất hội còn gì? Vừa ngồi xuống chưa ấm chỗ bà chủ đã đon đả thiết kế xong hai em Cao Bằng mới đón xuống. Con bé tiếp thằng Tú da trắng bóc, có hai răng khểnh cực điệu. Nhưng thằng cù lần ngồi ngây cán tàn, mặt mũi đỏ tía, uống vã hết hai lon bia liền, không chịu đứng dậy vào phòng. Tao ngán quá. Cứ ngồi chường mặt suốt tối ở đây có mà bỏ mẹ. Tao ra hiệu giục nó mấy lần, nhưng nó làm bộ tảng lờ mới ức chứ. Điên tiết, tao quát vào tai nó: "Nào, bố có ăn đặc sản không thì bảo ? Nếu bố đến đây chỉ để ngửi thôi, con kính mời bố phắn khẩn cấp !''.
    Tôi không nhịn được, cười phá lên.
    - Tóm lại tối qua mày đếch chăn dắt nổi nó chứ gì ?
    - Cái gì ? Nghe tao quát, thằng cù lần đứng phắt dậy, về "thẳng két''. Mẹ kiếp, mấy em nhà hàng đang vắng khách, mừng hụt, mặt cứ thuỗn ra. Mụ chủ Bông Đại tha tế sống là phúc đấy. Tao ngượng chín người quẳng vội cả một trăm cho bốn lon bia, không dám lấy lại tiền thừa, chạy mất dép.
    Thế này hết thuốc chữa. Tôi gặp Tú, nổi cáu, băm bổ mắng:
    - Mày định giữ đau khổ cho đến thối ruột như con cá chết trương à ? Mở mắt ra nhìn xem, quanh mày thiếu giống con gái xinh đẹp nết na, cái Thơ còn lâu mới bám được gót chúng nó. Hơn nữa cái Thơ đã nói nhất quyết không chấp nhận mày, thế mà định chết khô giữ chữ Hiếu với bu mày? Đồ ngu! Làm thằng đàn ông chả sợ thiên hạ chửi mày đầu đất ! Mấy con cave tối qua chắc được một bữa cười bằng chết.
    Tú không cãi, nó rên rỉ thừa nhận:
    - Ông chửi tôi cũng đáng thôi. Nhưng lúc ấy tôi lại nghĩ đến Thơ. Không thể mó vào bất cứ ai được... Làm vậy chẳng khác tôi hèn hạ trả thù Thơ. Với tôi, cô ấy có tội lỗi gì đâu ? Các ông chưa hiểu hết lòng dạ cô ấy.
    Đã vậy mặc xác mày ! Tôi thề không quan tâm tới chuyện riêng của nó nữa.
    Chúng tôi vay vốn đại tu con thuyền. Cá mú mấy năm gần đây sợ bờ, hoặc giả chúng khôn ngoan biết tránh xa vùng nguy hiểm. Để vượt lộng tìm cá, phải đi giã đôi mới bõ. Chúng tôi quyết tâm mua bộ lưới mới, rủ thêm thuyền ông Cận, người vạn Ngang, đi giã đôi với chúng tôi.
    Mọi thứ đã sẵn sàng. Vợ tôi với vợ Hào sắm lễ trình đền Cờn ngày rằm hôm trước. Mấy can nước ngọt, rau mắm, gạo nước đủ cả. Ngày khởi sự hẹn hò với thuyền của ông Cận định vào con nước sáng mười sáu.
    Mấy bữa liền tôi gặp Tú ngồi một mình ngoài quán ốc luộc, cái chai rượu nửa lít luôn cạn đến đáy. Nguy hiểm thật ! Liệu nó còn hồn vía không đây ? Hy vọng trời biển sẽ lấy lại thăng bằng cho nó thì may quá.
    Bốn giờ sáng hôm mười sáu tôi đến nhà Tú. Tôi với nó có nhiệm vụ khiêng giã lưới mới sắm ra thuyền. Trông thấy căn bếp sáng đèn, tôi biết Tú đã dậy. Tôi đằng hắng đe con mực khỏi sủa, đi vào sân.
    Hóa ra ông Bổn, bố Tú, đã ngồi với cái điếu cày ở bàn nước từ bao giờ. Hai ngọn nến điện trên bàn thờ nhuộm đỏ lừ mọi vật lẫn ông già ngây ngô, giống cảnh phim Trung Quốc hay chiếu. Chúng tôi đã phân công vợ Hào mang cơm nước hai bữa sang cho ông. Tôi chào qua ông cụ cho phải phép rồi xuống bếp tìm Tú.
    - Đi thôi chứ?
    - Đi.
    Hai đứa tôi khuân giã lưới ra sân. Khá nặng. Những sợi lưới mềm suội mát lòng bàn tay, chưa nhuốm mùi biển làm tôi phấn khích.
    - Ôi giời, cứ như được sờ vào gái đồng trinh ấy.
    Ông Bổn từ trong nhà hỏi vọng ra:
    - Đi hở?
    - Vâng.
    Tôi nghe mình trả lời tựa một tiếng reo vui. Chúng tôi luồn thanh đòn vào giã lưới, lấy hết sức nhấc lên vai. Tú đi đằng trước. Nó ngoái lại dặn ông Bổn:
    - Tí bố nhớ uống thuốc đấy nhé!
    Chẳng đợi ông Bổn trả lời, hai chúng tôi lần lượt đi qua cổng ngõ nhà Tú.
    Tôi nhớ hôm đó sương xuống nhiều. Không khí ẩm mặn bám vào da thịt mát rượi. Chung quanh làng chài còn thiêm thiếp ngủ, chỉ tiếng chân chúng tôi bậm bịch khuấy động cái ngõ đá dốc.
    Bỗng nhiên đang đi Tú dừng lại đột ngột. Tôi loạng choạng dừng theo. Nghểnh cổ nhìn lên phía trước, tôi chợt nhận ra Thơ. Cô bé sùm sụp mảnh khăn hoa bịt đầu che ngang trán lẫn nửa mặt dưới, chỉ để lộ đôi mắt to đen, tay vẫn xách cái ga-men nhôm đi đánh hàu. Điều đập vào mắt tôi là cái bụng thây lẩy, dễ đã năm, sáu tháng. Thơ từ ngõ nhà cô đi ra. Oái oăm ở chỗ cái ngõ đá ấy đối diện ngõ nhà Tú và cả hai đều dồn về con đường nhỏ dẫn ra bãi biển. Ba chúng tôi gặp nhau đúng giữa ngã ba, không ai kịp né tránh.
    - Các anh đi lưới đấy ạ.
    Thơ lí nhí chào. Tú không trả lời. Còn tôi, tim tôi nhói lên một linh cảm không lành. Tôi lấy giọng bình thản đáp lại:
    - Em ra bãi sớm thế? Đi trước đi!
    Thơ hơi cúi đầu, vội bước dấn qua ngã ba, vợt lên trước chúng tôi. Chờ vài giây cho Thơ đi xa hơn, tôi khẽ ẩy cái đòn khiêng trên vai, ra hiệu giục Tú đi tiếp. Quái lạ, không những nó cứ ỳ tại chỗ mà còn trở vai đòn, đứng đối mặt với tôi, ra một lệnh ngắn gọn:
    - Quay về!
    - Sao? Sao phải về?
    Tú không trả lời chỉ du đòn khiêng rất mạnh khiến tôi suýt ngã ngửa. Tôi vừa hốt hoảng trở vai lấy thăng bằng, Tú đã đẩy tôi bước đi. Nó đẩy tôi phăm phăm một cách đầy giận dữ. Thằng khỉ !
    - Từ từ nào !
    Mặt đường ngõ lát đá bập bỗng dưới bước chân chạy gằn của tôi. Nó định làm gì thế này?
    Về tới sân nhà, Tú quẳng phắt giã lưới xuống đất, chạy ào vào bếp. Tôi chạy theo. Trên bếp than tổ ong, một nồi nước nóng đang nghi ngút hơi. Tôi vẫn biết Tú thường đặt cho bố nước nóng để ông cụ tắm rửa mỗi sáng. Ngỡ nó làm gì, nhưng tôi chỉ thấy nó mở nắp bếp cho lửa cháy mạnh hơn khiến nồi nước đột ngột réo sôi. Tôi yên tâm bỏ lên nhà kiếm điếu thuốc lào.
    Thấy tôi, ông Bổn làu nhàu:
    - Bảo nó thèm uống chè tươi phải chuẩn bị nấu từ sớm đi. Lại còn quay về!
    Hóa ra dạo này ông lão tỉnh táo hơn trước. May cho thằng Tú. Nó thương bố không ai bằng. Tôi quý nó ở chỗ ấy.
    - Con xin ông điếu thuốc.
    - Hút đi.
    Cái điếu nảy ro ro thật thích. Đang khoan khoái thở làn khói trắng tự nhiên tôi giật mình đánh thót. Một nỗi nghi ngờ thoáng nhanh trong óc tôi. Nó nấu nướng gì ? Chả lẽ...
    Chạy vụt xuống bếp, tôi kịp nhìn thấy thằng Tú đang ngoáy vào nồi nước sôi sùng sục mấy cái đuôi cá đuối khô, một thứ của độc để dành mà dân đi biển thường giữ. Ôi trời, không thể như thế !
    -Tú ! Mày điên à ? Thôi nào !
    Giọng tôi lạc đi. Mặt thằng Tú tối sầm, đôi mắt long lên dữ tợn. Nó không trả lời tôi, lẳng lặng nhấc nồi nước ra khỏi bếp.
    - Tú, mày... mày...
    - Lui ra, đừng đến gần tôi !
    Tôi chỉ còn cách đứng chắn ngay ở cửa bếp. Nhưng Tú lừ lừ tiến tới. Tôi thấy rõ hai hàm răng nó nghiến kèn kẹt quyết liệt, đôi mắt đỏ ngầu quắc lên. Nó sẽ hắt thẳng nồi nước sôi vào tôi đây. Theo bản năng, lập tức tôi nhảy lùi lại phía sau mấy bước.
    Tất cả xảy ra trong chớp mắt. Thằng Tú chạy ào ra sân, tưới một vòng nước sôi quanh giã lưới. Thấy nó tới đến vòng thứ hai, nước sôi không còn mấy, tôi mới mê mẩn đá mạnh cái nồi trên tay Tú. Cái nồi bắn văng tới tận góc sân. Tôi lao vào ôm chặt lấy Tú. Như con thú mất mồi, nó vùng mạnh một cái khiến tôi ngã ngửa. Tuy mắt nảy đom đóm, tôi vẫn kịp nhìn thấy nó ôm đầu chạy biến khỏi ngõ.
    Gượng ngồi dậy, tôi chạy đi tìm Hào. Tôi bảo nó cùng về vác lưới ra bến. Trên đường tôi kể vắn tắt mọi việc cho Hào nghe. Nó không ừ hử một tiếng, cũng chẳng tỏ vẻ đồng tình trước lời phê phán gay gắt của tôi.
    - Thấy chưa, sáng qua tao đã bảo phải cảnh giác, nó sắp điên rồi. Giờ mày tin lời tao chưa ?
    Lúc ấy, Hào mới nhẹ giọng hỏi lại tôi:
    - Vào địa vị mày, mày làm khác được?
    - Nhưng đấy là cái Thơ!
    - Cái Thơ ? Vậy chúng tao là vỏ ốc à? Địa vị tao, tao cũng không thể làm khác thằng Tú. Ai chịu trách nhiệm, nếu có chuyện gì xảy ra hôm nay?
    Tôi không buồn tranh luận.
    Những người đàn bà chửa xóm chài phải hiểu một điều cấm kỵ không ai nói ra: Cấm xuất hiện ngáng đường hay sờ mó vật dụng của người chuẩn bị lên thuyền ra khơi. Nếu chẳng may vô tình vi phạm, sẽ khó thoát chuyện bị "đánh vía'' cho trụy thai bằng nồi nước sôi, đuôi cá đuối, cùng bài niệm bí hiểm ít được phổ biến. Đánh vía xong, những người đàn ông tin rằng họ sẽ thoát được vận xúi, điềm gở. Điều này chỉ là chuyện rỉ tai nhau giữa những người đàn ông dân chài, từ cổ xưa đến giờ.
    Tại sao người đàn bà chửa lại mang điềm gở ? Chả ai giải thích rõ được. Ngay bản thân tôi, tuy ít tin những chuyện huyễn hoặc nhưng cũng không dại gì phản đối. Dân chài lênh đênh sóng gió, đối mặt với trăm ngàn bất trắc, hơn ai hết họ cần vững dạ, cần thanh thản bước chân xuống thuyền. Họ có kiêng kỵ cũng chẳng ai cấm được họ.
    Nhưng đây là thằng Tú, đây là cái Thơ với đứa trẻ vô tội trong bụng. Tôi không thể ngờ Tú nỡ xử sự như vậy. Đơn thuần do mê tín, hay có cả lòng thù hận trong đó?
    Sắp khởi hành, tôi mừng thấy Tú từ đâu chạy vụt ra bãi. Không ai nói lời nào, ba đứa tôi lặng lẽ lên thuyền. Bên kia đội bạn ra lệnh xuất phát. Tiếng máy côle sáu mã nổ giòn lấy lại sự hưng phấn của tôi. Xưa tôi xin nghỉ chân loong toong văn phòng ủy ban phường Vạn Hương, về đi lưới, chính vì sự nao nức mỗi khi con thuyền chồm qua ngọn sóng, bỏ lại rừng thông bờ đá phía sau, đối mặt phía trước chỉ còn biển cả bao la tít tắp chân trời... Lúc ấy gỗ đá cũng phải xao xuyến. Ai sinh ra từ xóm chài, khó lòng dứt bỏ được sự quyến rũ của biển đã ngấm trong máu thịt.
    Giã lưới buông hết, chúng tôi neo thuyền. Mặt trời âm u ẩn sau mây. Thằng Hào nhặt rau, Tú nổi lửa bếp. Lúc này nghỉ ngơi, tôi mới kịp xem xét mấy nốt bỏng nước sôi ở bắp chân. Thằng Tú chợt nhận ra, có vẻ áy náy. Hào vô tình hỏi:
    - Sao lại phỏng rộp ghê thế ?
    - Thì đấy. May nồi nước còn ít, chứ không cầm chắc tao thối thịt.
    Tú ngượng ngập:
    - Người ta biếu ông cụ ít mỡ trăn. Rồi tôi đưa cho. Bôi vào khắc dịu lại ngay.
    Tôi lườm Tú.
    - Mày là thằng rồ hoa mướp ! Sẽ có lúc tao nện cho bằng tỉnh ra.
    Nó im lặng vẻ hối hận.
    Hãy hối hận đi ! Còn nhiều dịp cho mày hối hận nữa ! Mày sẽ phải trả giá cho hành động của mày ngay đấy thôi !
    Quả vậy, sau khi ba đứa tôi ăn mừng thắng lợi chuyến đi giã đôi đầu tiên ngay tại quán bia ở bờ biển, rồi giữ chặt bọc tiền ai về nhà nấy, tôi chưa kịp ngả lưng nghỉ ngơi đã nghe tiếng xe máy của Tú rú rít ngoài sân. Nó hớt hải chạy vào, mặt xám ngoét, nói nhỏ với tôi:
    - Ông đi lên Trung tâm y tế thị xã hộ tôi với! Thơ... cô ấy...
    Tôi ngồi bật dậy, chẳng hỏi thêm, chạy vội ra xe máy đi cùng Tú.
    Tú kể cho tôi nghe chuyện nó vừa gặp bà Thạo ở Trung tâm y tế thị xã về. Bà cụ nước mắt chứa chan cứ níu lấy Tú khóc. Đêm hôm qua, Thơ tự nhiên đau bụng quằn quại và có dấu hiệu sảy thai. Đứa bé sáu tháng chết ngay trong bụng. Lấy được thai ra nhưng mẹ nó bị băng huyết. Cô ấy yếu quá thỉnh thoảng lại ngất đi.
    Chúng tôi vào phòng cấp cứu khu sản. Thơ nằm thiêm thiếp trên giường đang được truyền máu. Nhìn gương mặt xanh lét như tàu lá, tôi lo cô ấy không qua khỏi.
    - Các anh là người nhà sản phụ ?
    - Vâng, tôi là chồng cô ấy - Tú đáp luôn không đắn đo.
    - Sao bà cụ nói cô ấy chưa có chồng ?
    - Bà tôi lẫn cẫn. Cần gì bác sĩ cứ nói với tôi.
    - Đêm hôm qua cô Thơ sảy thai, anh không có nhà hay sao ?
    - Tôi đi lưới vừa về sáng nay. Tôi mang theo tiền đây, xin chị làm ơn cố cứu vợ tôi với.
    - Được rồi. Anh ký vào giấy tờ này đã.
    Chúng tôi ngồi canh chừng ống truyền máu theo lời chỉ dẫn của chị bác sĩ. Thơ vẫn chưa tỉnh. Tới giữa chiều, tôi ra ngoài kiếm bánh mì để hai thằng ăn tạm. Lúc mang hai ổ bánh với pa-tê về, tôi thấy Tú đang gục mặt vào bàn tay buông lơi của Thơ, đôi vai run lên lặng lẽ. Tôi quay ra ngoài, mặc nó khóc.
    Để thức trông Thơ buổi đêm, tôi với Tú vào quán cà phê Trung Nguyên gần Trung tâm y tế làm mỗi thằng một cốc số tám cho sành điệu.
    Thằng cù lần mặt mũi rầu rĩ đến thương. Nó cắm mặt vào cốc cà phê trong lúc thổ lộ với tôi. Nó nói rằng thực ra Thơ rất yêu nó, nhưng cô ấy không vượt qua được mặc cảm lẫn lo sợ. Nỗi đau khổ của bà mẹ trở thành một ám ảnh, án ngữ tình yêu của cô. Tựa hồ luôn có tiếng nói bảo rằng: cô là con của người bố tồi tệ, cô sẽ phải trả nợ cho bố cô, món nợ đúng như ông ta gieo vào đời mẹ. Và cô cố cưỡng lại điều khủng khiếp ấy.
    - Ông tin không, Thơ giữ đứa bé trong bụng là cốt để tôi tuyệt vọng, đừng theo đuổi nữa, chứ cô ấy đâu có còn yêu thằng cha dạy nấu ăn. Nhưng tôi không thể sống thiếu Thơ được. Mặc kệ, bây giờ tôi quyết không chịu nhân nhượng cô ấy, muốn ra sao thì ra.
    - Hãy lo cho nó sống được đã.
    Nửa tháng trời Tú lăn lóc bên giường bệnh. Nó công nhiên đóng vai một anh chồng chu đáo. Tuy vậy tôi để ý hai đứa cùng tránh trò truyện riêng với nhau. Chỉ khổ tôi cứ phải kè kè bên cạnh Tú để làm chất xúc tác.
    Ấy thế, Thơ dần dần vượt qua cơn hiểm nghèo. Da cô hồng hào trở lại. Tôi hy vọng khi Thơ trở về sẽ là ngày chúng nó sum họp sau bao nhiêu đau khổ gây ra cho nhau.
    Nhưng rõ ràng số phận không chiều người. Ngày Thơ sắp bình phục, tự nhiên Tú đòi chúng tôi để nó tiếp tục đi biển. Nó bảo ngồi trên bờ nửa tháng, người ươn lắm rồi. Dăm ngày nó đi lưới trở về, vừa vặn đón Thơ ra viện.
    Có thể do nó cần tiền lo cưới, hoặc trang trải viện phí, chứ tôi biết hạnh phúc nhất đối với nó bây giờ là được mọc rễ bên cạnh Thơ.
    Ai ngờ Tú đi chuyến biển cuối cùng của đời mình.
    Hôm ấy như có linh tính xui khiến, lúc ra bến, đi bên tôi Tú có vẻ bồn chồn khác thường. Tôi đùa trêu cho nó bình tĩnh:
    - Tao tính rồi mày trở thành thằng dính vợ nhất xóm chài. Chưa xa nửa bước đã nóng ruột, có làm ăn con khỉ !
    - Tôi không muốn để cô ấy ở một mình. Nói dại sau này tôi mệnh hệ gì, anh em hãy thương tôi, bảo bọc cô ấy nhé.
    Tôi mắng nó gở mồm, đã định đuổi về, nhưng không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào tôi lại thôi.
    Hôm ấy thuyền ông Cận có thêm người cháu họ tập sự đi khơi.
    Thoạt đầu trời rất đẹp, nắng vàng ong mặt biển, không gian oi nồng như mọi ngày. Chỉ đến chiều gió bất ngờ nổi lên, chân trời ùn ùn những đụn mây đen vần vụ đầy đe dọa. Không dám chủ quan, cả hai thuyền vội hò nhau chạy hết tốc độ vào bờ.
    Nhưng cuộc chạy trốn của chúng tôi thật thảm hại trước sự cuồng nộ của biển. Chỉ trong chớp mắt, một đám mù trắng xóa đã vây bọc chúng tôi và hơi lạnh ẩm ướt đột ngột khiến tôi sởn gai ốc. Tựa hồ bàn tay vô hình của thần biển đã sờ vào người tôi. Không còn nhìn thấy thuyền ông Cận ở đâu.
    Vòi rồng !
    Tôi nghe tiếng Tú thét thất thanh trong tiếng gió rít. Một cơn giông xoáy hình thành từ mạn phía đông. Nhìn ra đã thấy một phễu nước đen ngòm lừng lững tiến tới. Nó giống con rắn hổ mang bành khổng lồ, lắc lư thân mình lao tới trước. Tuy nó đi chệch qua, nhưng tôi biết ảnh hưởng của nó sẽ rất khủng khiếp. Chưa kịp trấn tĩnh, tôi đã mê mụ đi khi một ngọn sóng bất ngờ dâng lên cao, đổ ập xuống đầu. Trong cơn choáng váng kinh hoàng, tôi quờ được một mảnh ván thuyền.
    Chuyến ấy cả giã lưới đôi lẫn thuyền đều trả nợ biển cả. Tôi với Hào may mắn được tàu cứu hộ vớt lên sau mấy giờ ngoi ngóp, vật lộn với cái chết. Nhưng Tú thì không... Thuyền ông Cận còn thiệt hại hơn, chỉ một mình ông ấy thoát nạn.
    Sau cái ngày Tú không trở về, Thơ ốm quỵ đợt thứ hai. Chúng tôi đều hết sức chăm sóc, nhưng rốt cuộc chỉ cứu được phần xác cô ấy.

    Ba năm trôi qua, bây giờ trẻ con xóm chài đã quen với cái dáng gầy gò thất thểu của một người cô gái ngớ ngẩn. Chúng không trêu chọc, thậm chí đôi khi gặp trên đường còn bẻ cho nửa cái bánh. Cô gái ấy lặng lẽ như cái bóng, suốt ngày tha thẩn ở bãi đá, ngóng ra biển như thể đợi ai. Chiều đến, vợ tôi thường nhờ lũ trẻ con hoặc ai đó dắt cô ấy về nhà, lo chuyện tắm táp, ăn uống, rồi chỉ vào tấm phản kê dưới nhà ngang dặn:
    - Ngủ đi nhá! Tôi đã mắc màn, không được tháo ra nghe chưa ?
    Cô gái ngước bộ mặt sớm tàn tạ nhìn vợ tôi, khẽ nhăn mặt, đầu gật gật ra ý đã hiểu.
    Rất nhiều bận vợ tôi thở dài đánh sượt, ngao ngán hỏi:
    - Chả lẽ... cứ phải thế này mãi ?
    Mười lần như một, tôi đều dịu giọng dỗ dành vợ tôi:
    - Ừ, trước mắt chịu khó thế đã. Tôi hứa với thằng Tú rồi...
    Tuyệt nhiên tôi không muốn bao giờ phải đi qua cái ngõ đá dốc ấy. Ở đó chắc chắn có một oan hồn không siêu thoát được!
    [/FONT]
     
    bachho, No MercY, 5dola and 1 other person like this.
  18. 5dola

    5dola Thần Tài Perennial member

    TÔI VÀ EM
    HAI TÂM HỒN LẠC LÕNG GIỮA ĐÊM ĐÔNG
    ********

    Đêm đông. Gió se lạnh luồn qua từng con phố nhỏ. Cái rét ngọt đầu mùa còn phảng phất đâu đây mùi hoa sữa thơm nồng. Phố đầu đông vẫn nhộn nhịp như ngày thường. Có khác chăng là những hàng xà cừ lao xao rụng lá. Những quán cóc mọc lên nhiều hơn, khói bốc lên nghi ngút. Tôi lang thang một mình trong đêm. Thấy mình trơ trọi, cô độc giữa phố phường tấp nập. Nhiều lúc cũng định ngồi xuống một quán náo đó, nắm trong tay một khúc ngô nếp nướng cho ấm áp nhưng lại thôi. Những hàng quán trông quen mà lại rất xa lạ. Tôi thấy lòng bồn chồn. Hình như tôi đang nhớ em. Nhớ cái dáng ngồi quạt bếp than của em. Nhớ nụ cười ướt đẫm mồt hôi của em rạng rỡ trong ánh lửa bập bùng.
    [​IMG]

    Lúc chiều, anh em trong phòng vừa ngồi ca thán với nhau về công trình sắp thi công. Vừa xa xôi lại vào chỗ khá hiểm trở. Lại lo lắng khi nghe nói năm nay sẽ rét hơn mọi năm. Có gì đâu. Dân công trình là vậy. Dị ứng với mùa đông…bởi vì mùa đông sẽ là triền miên những ngày tháng xa nhà, là lều lán, là cơm niêu nước lọ. Có anh ca thán vì vừa bị vợ giận. Có anh người yêu dọa chia tay. Tôi phì cười. Liệu được mấy bữa. Người ta yêu thì người ta mới giận chứ. Thế là anh em lại quay sang tôi trêu trọc. Mọi người hỏi tôi không buồn sao. Tôi tỉnh bơ. Có một thân một mình, đi đâu cũng thế thôi. Anh em nhìn tôi ngạc nhiên. Cũng đúng thôi. Tôi về phòng này chưa được một năm nhưng chưa khi nào anh em bắt gặp tôi hẹn hò với một cô gái nào đó. Với tôi chỉ có công việc mà thôi.
    Ấy thế mà giờ đây, tôi nhớ em da diết. Mấy năm nay, tôi lấy công việc để quên đi hình bóng của em. Tôi chọn những chuyến đi công tác để xa thành phố này, xa nơi và em đã quen nhau. Hành trang mà tôi mang theo là nỗi nhớ em đã in hằn thành vết thương trong trái tim tôi. Tôi thích cái cái cảm giác ngồi một mình trong gió rét, ở một nơi hoang vu nào đó để cái lạnh làm trái tim tôi băng giá, vết thương sẽ bớt đau hơn. Để bóng hình em tan đi vào sương khói. Nhưng những lúc về qua con phố cũ, nơi em đã từng ngồi đó, nướng những bắp ngô cho khách qua đường, lòng tôi lại trào dâng một nỗi khắc khoải khôn nguôi. Kỉ niệm ngày đầu tiên tôi gặp em lại ùa về. Đẹp đẽ và day dứt…
    Tôi quen em bốn năm về trước, đó là một buổi tối mùa đông…
    Tôi lững thững bước ra khỏi quán rượu khi bữa tiệc đã tàn. Hơi men làm tôi chuếch choáng. Đầu óc quay cuồng, trống rỗng. Tôi loạng choạng bước tới chỗ để xe. Gió lạnh thổi thốc vào mặt buốt giá. Tôi rùng mình cuộn hai tay trước ngực. Nhưng gió vẫn lì lợm như muốn cào rách hai lá phổi. Đầu tôi đau như búa bổ. Chợt thấy trong người khó chịu. Tôi vội vã chạy tới gốc cây gần đó khi trong người vẫn còn một chút tỉnh táo và lịch sự. Tôi nôn thốc tháo tất cả những thứ có trong dạ dày. Vị đắng ứ đầy cổ họng. Người tôi run lên bần bật. Tôi gục đầu vào thân cây ngồi một lát cho tỉnh rượu.
    Trời càng về khuya càng lạnh. Phố âm u trong làn sương trắng mỏng manh. Tiếng xe cộ thưa dần. Tôi không nhớ mình đã ngồi đó bao lâu nhưng khi tỉnh lại đã thấy người trong quán lục tục đóng cửa. Tôi quyết định để xe lại đó vì mình là khách quen. Tôi chệnh choạng đứng dậy vẫy tắc xi. Nhưng đợi mãi chẳng có cái nào chạy qua. Lần túi tìm điện thoại. Cũng chẳng thấy đâu cả. Tôi buột miệng chửi thề rồi ngồi bệt xuống vỉa hè. Mệt mỏi. Cồn cào. Trong tôi như có trăm ngàn con côn trùng đang cắn xé. Ánh đèn xe lướt qua tôi loang loáng. Bụi đường bốc lên từng đám, táp vào mặt khô rát.
    Tôi lảo đảo đi dọc vỉa hè tìm xe ôm nhưng vô vọng. Có lẽ giờ này họ đang êm giấc bên vợ con cả rồi. Gió rít lên từng hồi, tôi run rẩy vịn tay vào thân cây. Cái lạnh đã ăn vào tận xương. Đầu óc lại quay cuồng như có lốc xoáy, thấy trong người nôn nao, mắt tôi hoa lên. Bụng cồn cào vì đói. Người tôi rã rời muốn đổ gục xuống đường. Đúng lúc ấy, một giọng nói ấm áp vang lên:
    - Anh làm sao vậy ? Ngồi xuống đây sưởi một lát cho ấm đã!
    Tôi căng mắt ra nhìn. Trước mặt tôi là một chậu than đỏ rực. Tôi vội vã ngồi thụp xuống mà chưa kịp thấy rõ mặt chủ nhân. Tôi cuộn mình như một hòn đá tảng, đầu gục trên hai gối mỏi mệt. Hơi ấm toả ra làm tôi tỉnh dần. Có tiếng nổ lách tách bên tai. Tôi ngẩng đầu lên nhìn. Một đôi tay uyển chuyển đang lật dở những củ khoai lang thơm phức. Một khuôn mặt trái xoan nghiêng nghiêng thổi lửa. Một nụ cười mềm mại như nắng mùa đông…Tôi ngỡ ngàng trước người con gái ngồi đối diện. Em đẹp một cách dung dị và thánh thiện. Tôi ngỡ như mình đang mơ. Tôi ngắm thật kỹ xem có phải mình nhìn nhầm không. Đúng là tôi không mơ. Em ngồi đó như một kiệt tác được tạo bởi bóng đêm và ánh hồng hắt ra từ bếp than. Khuôn mặt em rạng rỡ, lấm tấm vài giọt mồ hôi. Lọn tóc bồng bềnh trước mặt như những sợi khói chiều. Tôi ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Còn em bối rối vì sự vô duyên của tôi :
    - Sao anh nhìn em lạ vậy ?
    - À … anh xin lỗi. Tại vì em…em…
    Tôi ngắc ngứ không biết nói gì. Quả thực lúc đó tôi cũng không hiểu tại sao mình lại như vậy. Thường ngày, tôi luôn tự hào về tài tán tỉnh phụ nữ của mình. Nhưng giờ đây đối diện với em, mọi ngôn ngữ dường như bế tắc. Có lẽ tại hơi rượu vẫn còn ngập ngụa trong tôi. Em cười hiền, gỡ rối cho cả hai:
    - Lúc nãy anh bị trúng gió thì phải ? Trời lạnh thế này, sao anh không về nhà mà nghỉ ? Say rượu đi ngoài đường nguy hiểm lắm!
    - Anh đi bắt tắc xi…
    Tôi thều thào trả lời em. Đầu vẫn ong ong như có ai đánh trống. Im lặng một lát, giọng em lại vang lên ấm áp:
    - Giờ này ít xe lắm. Anh cứ ngồi nghỉ cho đỡ mệt! Khi nào có xe em gọi cho.
    - Cảm ơn… – Tôi lí nhí trong miệng.
    Men rượu làm tôi rã rời. Gió vẫn ào ào thổi tới. Ngồi bên bếp than mà tôi vẫn chưa hết lạnh.
    - Anh uống đi cho đỡ mệt! Trà nóng đấy!
    Em cầm chiếc cốc trên tay đưa ra trước mặt tôi. Khói thơm thơm bốc lên làm cho đôi mắt tôi đỡ mỏi. Tôi đón lấy, đưa lên miệng nhấp một ngụm. Tôi ngạc nhiên khi thấy có vị chua chua ngọt ngọt ở đầu lưỡi. Một mùi thơm dịu nhẹ khi tôi hít thật sâu vào lồng ngực. Thật dễ chịu! Bỗng thấy trong người nhẹ nhõm hơn. Tôi chưa kịp hỏi thì em đã lên tiếng:
    - Ngon không anh ? Em cho thêm một chút nước sấu ngâm vào trà đấy. Nó sẽ giúp anh tỉnh táo hơn. À, anh ăn khoai nướng không ?
    Tôi thật sự ngỡ ngàng vì sự ân cần của em. Cho dù tôi biết có thể em làm vì công việc buôn bán của mình. Nhưng tôi vẫn cảm thấy trong lòng bâng khuâng. Một cảm xúc khó tả nhen lên mỗi khi bắt gặp ánh mắt em.
    Những củ khoai nướng làm tôi đỡ mệt hơn. Gió vẫn đuổi nhau dọc theo dãy phố. Nhưng tôi không còn thấy lạnh nữa. Em cời than cho lửa cháy lên. Tôi nhìn rõ mặt em hơn. Em bình dị trong bộ quần áo nâu cũ và mái tóc dài. Tôi ngạc nhiên vì giữa phố phường đô hội mà vẫn có một người con gái chân quê mộc mạc đến như vậy. Không biết có phải tại trong tôi vẫn còn hơi rượu ? Hay tại ánh lửa hồng làm em đẹp hơn trong đêm đông này ?
    Tôi cúi nhìn đồng hồ. Đã hơn mười giờ đêm. Người qua đường thưa dần. Em lật dở những củ khoai xếp đầy trên bếp. Mắt em thoảng buồn.
    - Hôm nay bán được ít quá phải không em ? – Tôi buột miệng
    - Không anh ạ. Hôm nào cũng thế cả! – Em nhẹ nhàng đáp.
    Lúc này, chỉ còn tôi và em trên con phố dài. Không gian như lắng lại. Thoang thoảng đâu đây mùi hương hoa sữa cuối mùa. Tôi nhìn em hồi lâu. Em có khuôn mặt đẹp nhưng chứa đầy tâm sự. Một nỗi cô đơn mơ hồ.
    - Em tên gì?
    - Em là Hiên. Thế còn anh?
    Tôi mỉm cười trước câu trả lời hóm hỉnh của em.
    - Anh là Quang. Tức là ánh sáng ấy! Chắc em không phải là người thành phố ?
    - Vâng. Em chỉ ra đây làm thôi!…
    Giọng em nghẹn lại. Hai mi mắt rủ xuống, trầm tư.
    - Anh cũng thế! …- Tôi khẽ đáp.
    Dường như cả tôi và em đều nhận thấy một sự đồng cảm vu vơ. Đó là sự gặp gỡ tình cờ của hai tâm hồn đang lạc lõng giữa đêm đông. Chúng tôi ngồi nói chuyện cùng nhau cứ như hai người tri kỷ lâu ngày gặp lại. Tôi càng thấy mến em hơn sau những câu chuyện mà em kể.
    Nhà em rất nghèo, lại đông anh em. Bố em mất trong một trận lũ lớn. Anh trai tàn tật nằm ở nhà. Em bỏ học giữa chừng để giúp mẹ làm việc nuôi các em. Tuổi thơ em vất vả nhưng em luôn lạc quan hướng về phía trước. Em có một cậu em trai hiện đang là sinh viên. Và em lên thành phố là để nuôi em trai ăn học.
    - Thế ban ngày em làm gì ? Cũng đi bán khoai nướng à ?
    - Không. Ban ngày em làm ở xưởng may.
    Tôi nhìn em cảm phục. Em chỉ là một cô gái nhỏ nhắn nhưng lại có một nghị lực phi thường. Qua cách nói chuyện của em, tôi biết em cũng là một người có trí tuệ. Nhưng có lẽ cuộc sống đã không cho em thực hiện ước mơ trên con đường học hành.
    - Thế bây giờ anh đang làm gì ?
    - Anh là kỹ sư xây dựng! Anh làm việc trong thành phố.
    Tôi ngán ngẩm trả lời em. Vẻ mặt không một chút tự hào. Có lẽ tại những thứ mà tôi có được không phải là đôi tay tôi làm nên. Tôi thấy ngại khi em hỏi về cuộc sống của mình. Em cũng hiểu và lảng sang chuyện khác. Chúng tôi cứ ngồi nói chuyện cho tới khi đồng hồ chỉ mười hai giờ đêm.
    - Thôi em dọn hàng đây. Mai em con phải đi làm sớm.
    Em vội vã dọn hàng. Tôi đành đứng dậy móc ví ra trả tiền. Em nằng nặc chỉ nhận mỗi tiền khoai nướng rồi tất tả quẩy quang gánh bước về cuối con phố. Tôi thẫn thờ nhìn dáng em liêu xiêu hút dần trong bóng đêm. Đêm hôm ấy, tôi không sao ngủ được. Cứ nhắm mắt mắt lại, khuôn mặt em lại hiện ra. Em mỉm cười rạng rỡ nhìn tôi. Em làm tôi nhớ đến người con gái mà tôi đã từng yêu. Đó là mối tình đầu của tôi. Người con gái ấy cũng như em, giản dị và chân chất. Và điều mà tôi đáp lại lòng thuỷ chung chờ đợi của cô ấy sau bao nhiêu năm tôi đi học trên thành phố là hai tiếng “chia tay”. Em uất hận theo người khác vào Tây Nguyên xây dựng gia đình. Tôi bám trụ lại thành phố để thực hiện giấc mơ đổi đời. Tôi yêu Hương – con gái ông tổng giám đốc một công ty xây dựng. Sự nghiệp của tôi ngày càng thăng tiến. Và cái giá mà tôi phải trả cho điều ấy là trở thành con rối trước mặt người yêu, thành một kẻ giả tạo trước mặt mọi người. Tôi bắt đầu biết nịnh bợ, xỏ xiên, mưu mô, toan tính…Nhiều khi đứng trước gương, tôi bỗng giật mình vì thấy mình đổi thay quá nhiều. Tôi dần học cách chấp nhận. Để đạt được cái này phải hy sinh một cái khác. Đó là quy luật ở đời. Nhưng đôi khi, tôi vẫn ân hận vì cái giá mình phải trả là quá đắt. Gặp em, tôi như thấy lại chính mình một thời.
    Cả ngày hôm sau, tôi không sao tập trung vào công việc được. Tôi cố xua đi hình ảnh của em. Nhưng nụ cười ấm áp của em vẫn cứ hiện ra làm trái tim tôi muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Chiều ấy, tôi làm về muộn hơn mọi khi. Tôi lang thang ra góc phố hôm qua gặp em. Màn đêm đã giăng tràn khắp phố mà em vẫn chưa ra. Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây, kiên nhẫn chờ đợi. Và em xuất hiện với một gánh hàng trên vai. Bất giác tôi thấy mình ngộp thở. Nhìn dáng em tất tả mới quen thuộc làm sao. Cái dáng tần tảo ấy đã bao lần hút hồn tôi nơi phố xá. Cái dáng một thời là nỗi nhớ, nỗi chờ mong trong tôi.
    - Ủa. Anh làm gì ở đây vậy ? – Em ngạc nhiên hỏi tôi.
    - À. Anh có việc đi ngang qua đây! – Tôi bối rối trả lời
    Em bỏ ngang câu chuyện, vội vã nhóm bếp than. Tôi vẫn đứng đó, lặng lẽ nhìn em. Bếp nhóm xong rồi, em mới ngơi tay ngồi nghỉ một lát. Em thẫn thờ nhìn đăm đăm vào những viên than hồng. Dáng vẻ em mệt mỏi. Hôm nay trời lạnh hơn, người qua đường vội vã, thưa thớt.
    - Sao hôm nay em ra muộn thế ? – Tôi hỏi
    Em giật mình trả lời:
    - Dạ. Em có chút việc bận ở nhà thôi!
    Phố đêm chợt vắng lặng. Người qua đường hối hả. Em bán khoai. Thỉnh thoảng mới quay sang nói chuyện với tôi vài câu. Tôi vẫn vui. Tôi cứ lặng lẽ nhìn em tất tả với công việc. Đợi cho khi nào khách vãn, tôi lại bắt chuyện với em. Tôi không hiểu tại sao mình lại cứ ngồi ở đó. Em cũng vậy. Không hỏi, không thắc mắc. Tôi và em lặng lẽ ngồi bên nhau cho đến tận khuya. Lúc ra về, tôi quay sang em hỏi:
    - Mai anh lại tới nhé?
    - Vâng. Nếu anh rỗi! – Em mỉm cười rồi e lệ quay đi.
    Tôi ra về, lòng tràn ngập niềm vui.
    Những hôm sau, tôi tìm cách từ chối những cuộc nhậu hoặc cố gắng ra thật sớm để đến chỗ em vẫn ngồi bán khoai. Em vui vẻ trước sự có mặt của tôi. Tôi giúp em vài việc vặt những lúc đông khách. Còn khi không có ai, tôi và em lại ngồi nói chuyện như hai người bạn. Đôi khi cũng thấy mình khó hiểu vì mới gặp nhau có vài lần mà cứ như là thân thiết từ ngày xưa. Tôi không ngần ngại kể cho em về cuộc sống của mình. Em cũng vậy. Tôi và em đúng là tri kỷ. Em thông cảm và luôn động viên tôi hãy sống tốt hơn. Em làm tôi thấy lại hình ảnh mình ngày xưa. Nghị lực và hoài bão. Bên em, tôi luôn cảm thấy bình yên và ấm áp.
    Gần một tháng trôi qua, tình cảm của tôi dành cho em cứ lớn dần lên. Tôi yêu em từ lúc nào không hay. Ngày nào không nhìn thấy em, tôi nôn nao bồn chồn. Em cũng rất vui vẻ khi có tôi bên cạnh. Nhưng em vẫn ý tứ và giữ một khoảng cách. Mối quan hệ của tôi không qua được mắt mọi người. Kể cả cô con gái ông tổng giám đốc – người yêu tôi. Nhưng tôi chấp nhận tất cả. Tôi đã sẵn sàng để trả giá cho hành động của mình.
    Một đêm khác, tôi lẽo đẽo theo em về tận cổng nhà trọ. Đợi lúc em sắp vào nhà, tôi vội nắm tay em thủ thỉ:
    - Hiên! Yêu anh nhé!
    [​IMG]
    Em bối rối vịn tay vào cánh cổng không nói. Gió lạnh thổi vun vút nhưng tôi vẫn thấy tai mình nóng bừng. Tim tôi đập hồi hộp. Có lẽ tôi hơi vội vàng. Chúng tôi quen nhau chưa lâu. Nhưng tôi tin ở tình cảm của mình. Với tôi như thế là đủ. Và tôi cũng tin ở em. Em không trả lời. Đôi má ửng đỏ. Em vội vã bước đi.
    Mấy ngày liền, tôi không tìm em nữa. Tôi muốn cho em thời gian để suy nghĩ. Và cũng cho mình thời gian để có thể lắng lại xem liệu mình có vội vã quá không. Cho đến một đêm, khi tôi đến chỗ lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, thì em đã không còn ở đó nữa. Mọi người bảo em không đi bán đã mấy hôm nay rồi. Tôi lo em bị ốm nên đến nhà trọ tìm. Em cũng không có ở đó. Em đã về quê. Tôi hoang mang nhận ra mình chưa bao giờ hỏi địa chỉ nhà em. Người ở xóm trọ cũng chẳng ai biết em ở đâu. Tôi cứ chờ, chờ mãi. Cho đến khi mùa đông qua đi, em vẫn không quay lại. Tôi buồn bã không hiểu tại sao em lại lìa xa tôi. Em đi mà không giải thích một lời.
    Không lâu sau đó, tôi cũng chia tay Hương – con gái ông tổng giám đốc. Tôi thấy quá mệt mỏi với cuộc sống giả tạo này rồi. Tôi muốn được giải thoát. Đó là điều mà tôi muốn làm từ lâu lắm rồi.
    - Vì con bé nhà quê ấy à ? – Hương xỉa xói
    - Ừ..
    Tôi lạnh lùng bước đi trước cái nhìn tức tối của Hương. Thấy trong người thanh thản.
    Tôi bị chuyển xuống làm giám sát công trình. Vất vả thật . Nhưng tôi vẫn thấy vui. Tôi có thể thực hiện được những điều mà mình từng ấp ủ. Và tôi lao vào công việc để quên đi hình bóng của em. Một năm trôi qua, con tim tôi không còn đau đớn khi nghĩ về em nữa. Có dịp về thành phố, tôi lại ghé qua chỗ em hay ngồi nướng khoai. Tôi thường ngồi một mình hàng giờ dưới gốc cây nơi tôi và em gặp nhau lần đầu tiên, mặc cho gió lạnh táp vào mặt buốt giá. Ký ức hôm nào lại ùa về. Thấy lòng tái tê. Em bước qua đời tôi như một cơn gió nhẹ. Nhưng nó đã làm xao động cả cuộc sống của tôi. Để tôi cứ mãi đi tìm bóng hình em trong những cơn gió đông về.
    Một lần, bà chủ nhà trọ của em đưa cho tôi một cuốn sổ đã ố vàng. Bà nói tìm thấy dưới đáy tủ khi dọn phòng của em. Tôi dở ra xem. Đó là những dòng nhật ký em viết . Trong đó có cả cho tôi. Nhưng lời lẽ chứa chan yêu thương. Tôi lật đến trang cuối. Những dòng chữ không đều đặn nhoè đi. Có lẽ em đã khóc rất nhiều khi viết những dòng này.
    “Ngày…tháng … năm.
    Anh Quang! Thật sự em đã rất vui mừng khi nhận đựơc lời tỏ tình của anh. Em yêu anh rất nhiều. Nhưng em rất xin lỗi vì phải rời xa anh. Đừng trách em anh nhé! Có một điều mà anh chưa hề biết. Rằng em đã từng có người yêu. Người đó cũng như anh. Đầy ước mơ và nghị lực. Em đã dành trọn tình yêu cho người ấy. Nhưng khi ra trường anh ấy đã rời xa em để theo đuổi ước mơ của mình, để ở lại thành phố. Giờ anh ấy đã ra nước ngoài sinh sống. Em không trách anh ấy mà chỉ trách mình không may mắn mà thôi.
    Anh Quang! Em đã yêu anh bởi vì anh rất giống người đó. Em cũng biết rằng anh đã từng có người yêu dưới quê. Chị Hương đã gặp em và kể cho em nghe điều đó. Em không giận anh . Bởi vì anh cũng có nỗi khổ riêng của mình. Em xin lỗi! Em không muốn vì em mà anh phải đánh đổi cả sự nghiệp, ước mơ của mình. Đó là cái giá mà anh đã đánh đổi bằng tình yêu của những năm về trước. Có thể anh yêu em cũng chỉ vì một chút yếu lòng. Đừng giận chị Hương anh nhé! Chị ấy cũng chỉ muốn tốt cho anh thôi.
    Tạm biệt anh. Xin đừng tìm em. Quên em đi. Hãy sống thật tốt!
    Em yêu anh! Vĩnh biệt!”
    Tôi bật khóc. Tiếng khóc nức nở của một người đàn ông chưa bao giờ biết khóc. Tôi ân hận vì đã để tuột mất em. Đó là sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Em đã cho tôi hiểu được giá trị của hạnh phúc. Biết thế nào là tình yêu đích thực. Cho dù điều ấy đã qua muộn màng.
    Tôi xin đi làm công trình ở những miền xa xôi để tự tay xây lên những cây cầu nối hai bờ xum họp, để nhưng đôi trai gái yêu nhau không phải đợi đến mùa con nước cạn mới được gặp nhau. Và sau khi chứng kiến niềm vui của mọi người, tôi lại ra bờ sông, một mình gặm nhấm nỗi cô đơn. Tôi yêu mùa đông hơn bởi đó là khi tôi có thể ngồi hàng giờ trong giá lạnh, để trái tim lạnh giá hơn, không còn biết đập loạn nhịp khi đứng trước một ai đó nữa.
    Một chiều kia, tôi lặn lội tới một khúc sông nhỏ để khảo sát địa hình. Sương trắng giăng trên sông bảng lảng. Tôi nhìn đăm đăm về phía bờ bên kia, tưởng tượng ra một cây cầu sẽ được xây trong tương lai. Và bên này sông, sẽ không còn cảnh người đứng đợi đò chiều nữa. Bất chợt tôi khựng lại…Dưới bến sông, một dáng ngồi quen thuộc đã khắc sâu trong trí nhớ của tôi. Tôi hoang mang. Có lẽ mình nhầm. Tôi bước xuống bến để nhìn cho rõ. Ngạc nhiên, tôi khẽ gọi:
    - Hiên phải không?
    Không có tiếng trả lời. Người con gái ngẩng mặt lên nhìn tôi trân trối.
    Đúng là em rồi! Vẫn đôi mắt ấy! Vẫn ánh nhìn dịu dàng ấy! Tôi làm sao quên được. Trái tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Mấy năm nay, tôi đi khắp nơi cũng chỉ với một hy vọng mong manh là sẽ gặp lại em. Không ngờ, ông trời đã thương tôi, cho tôi gặp lại em hôm nay. Tôi bần thần nhìn em. Em bật khóc. Tiếng khóc thổn thức cả bến sông. Tôi muốn chạy tới, ôm em vào lòng. Nhưng những trải nghiệm trong cuộc sống đã cho tôi lý trí để kìm nén cảm xúc của mình lại. Có thể giờ đây em đã khác…
    - Bây giờ em sống thế nào? Đã lập gia đình chưa? – Tôi khẽ hỏi.
    Em bật khóc to hơn :
    - Em sống rất tốt! Anh đừng lo. Mà sao anh lại tới đây ? Còn tìm em làm gì nữa ? Muộn rồi! – Giọng em nghẹn lại, nhỏ dần.
    - Không! Anh đến đây để xây dựng cầu! Chỉ tình cờ gặp em thôi! – Dù rất đau lòng nhưng tôi vẫn trả lời một cách bình thản.
    Em chào tôi rồi vội vã bước đi. Tôi thẫn thờ trông theo mà không thốt lên lời. Sương chiều giăng kín tâm hồn tôi buốt giá. Con đò đã lướt qua sông. Để lại bên này mấy người khách ngẩn ngơ đứng ngóng. Gió lạnh ngoài sông thổi vào, quất vào tà áo họ bần bật. Trái tim tôi như bị bào nát.
    Tối hôm ấy, tôi hỏi đường đến nhà em. Một ngôi nhà đơn sơ bên bờ sông. Tôi đứng ngoài cổng trông vào. Trong nhà có tiếng trẻ con khóc, lại có tiếng hát ru ầu ơ. Tôi hụt hẫng. Bao nhiêu hy vọng tan biến. Em chỉ còn là sương khói, bồng bềnh trong ký ức của tôi…
    Tôi vừa quay bước đi thì trong nhà có tiếng nói vang lên:
    - Người lúc chiều trên bến có phải là anh ấy không? Sao chị không nói thật cho anh ấy biết là chị vẫn chưa lập gia đình?
    - Có ích gì đâu! Anh ấy đã có cuộc sống riêng của mình!
    - Nhưng em thấy ánh mắt anh ấy nhìn chị rất lạ. Hình như…
    - Thôi! Chị không muốn nói về chuyện này nữa! Chị mệt mỏi lắm rồi!
    Tiếng khóc nấc lại vang lên khiến tôi bừng tỉnh như vừa qua một cơn mộng mị. Tôi không thể tin được rằng em vẫn chưa quên được tôi. Cũng như tôi chưa khi nào quên em.
    Đã bao mùa đông qua, tôi vẫn mải miết đi tìm em. Và giờ đây, tôi thấy em đang ở rất gần. Lòng tôi rạo rực niềm sung sướng. Gió bấc ngoài mặt sông thổi vào ào ạt. Tôi vẫn bước đi, lòng ấm áp lạ kỳ. Tôi thấy yêu mùa đông hơn. Bởi vì mùa đông tôi có em!
    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/12
  19. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
  20. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
    Ajinomot, bachho, No MercY and 2 others like this.