Tương truyền, năm 1077, hơn 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát, ở phía nam bờ sông, giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hoà, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giành lại giang sơn, giữ vững bờ cõi Đại Việt. Một số nhận định xem bài thơ này là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
NAM QUỐC SON HÀ ,NAM DẾ CƯ TuYỆT NHIEN DINH PHẬN TẠI THIEN THÙ NHƯ HÀ NGHỊCH LỔ LAI XÂM PHẠM NHỮ DẴNG HÀNH KHANG THỬ BẠI HƯ
Alexandre de Rhodes (phiên âm Hán Việt là A Lịch Sơn Đắc Lộ ) là cha đẻ của quốc ngữ. Ngày xưa mần gì có tiếng Việt chị.
Vào năm 1651, ông cho in cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Ngoài ra một tác phẩm khác cùng tầm quan trọng do giáo sĩ Đắc Lộ soạn là cuốn Phép giảng tám ngày (tựa Latinh: Catechismus). Khác với phần tự điển ghi từ vựng, Phép giảng tám ngày là tác phẩm văn xuôi, phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ 17. Năm 1961, nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày qua đời của Alexandre de Rhodes, nguyệt san MISSI, do các cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, đã dành trọn số tháng 5 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc Lộ, một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng. Nguyệt san MISSI nói về công trình khai sinh chữ Quốc ngữ với tựa đề: "Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ".
Quê Hương Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ "Ai bảo chăn trâu là khổ'' Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Có những ngày trốn học Đuổi bướm cạnh bờ ao Mẹ bắt được... Chưa đánh roi nào tôi đã khóc! Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích... Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kỳ Quê tôi đầy bóng giặc Từ biệt mẹ, tôi đi Cô bé nhà bên có ai ngờ! Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi! Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi... Hòa bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Tôi lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi! Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng... Rồi hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi, quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người! Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi.
Quê Hương ( Đỗ Trung Quân) Quê hương là gì hở mẹ Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hở mẹ Ai đi xa cũng nhớ nhiều Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay Quê hương là con diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông Quê hương là cầu tre nhỏ Mẹ về nón lá nghiêng che Là hương hoa đồng cỏ nội Bay trong giấc ngủ đêm hè Quê hương là vòng tay ấm Con nằm ngủ giữa mưa đêm Quê hương là đêm trăng tỏ Hoa cau rụng trắng ngoài thềm Quê hương là vàng hoa bí Là hồng tím giậu mồng tơi Là đỏ đôi bờ dâm bụt Màu hoa sen trắng tinh khôi Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương có ai không nhớ...
Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về! Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Từ những năm đau thương chiến đấu Ðã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Ðã bật lên những tiếng căm hờn....
Nhớ văn lớp 8.... còn mấy ai nhớ bài này ai dịch... "... Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo thấy nước nhục mà không biết thẹn; Làm tướng triều đình phải đi hầu quân giặc mà không biết tức nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà không biết căm; Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa hoặc lấy đánh bạc làm tiêu khiển; Hoặc vui thú ruộng vườn hoặc quyến luyến vợ con hoặc lo làm giàu mà quên việc nước..."
谕诸裨将檄文 余常闻之,纪信以身代死而脱高帝,由于以背受戈而蔽昭王。豫让吞炭而复主仇,申蒯断臂而赴国难,敬德一小生也,身翼太宗而得免世充之围;杲卿一远臣也,口骂禄山而不从逆贼之计。自古忠臣义士,以身死国,何代无之。设使数子区区为儿女子之态,徒死牖下,乌能名垂竹白,与天地相为不朽哉。汝等世为将种,不晓文义,既闻其说,疑信相半,古先之事姑置勿论,今余以宋鞑之事言之。王公坚何人也,其裨将阮文立一云山立又何人也,以钓鱼琐琐斗大之城,当蒙哥堂堂百万之锋,使宋之生灵至今受赐。骨䚟䚟多改切兀郎何人也,其裨将赤脩思又何人也,冒瘴厉于万里之途,獗南诏于数旬之顷,使鞑之君长至今留名。况余与汝等生于扰攘之秋,长于艰难之势,窃见伪使往来,道途旁午,掉鸮乌之寸舌而凌辱朝廷,委犬羊之尺躯而倨傲宰辅,托忽必烈之令而索玉帛以事无已之诛求,假云南王之号而揪金银以竭有限之傥库,譬犹以肉投馁虎,宁能免遗后患也哉。余常临餐忘食,中夜抚枕,涕泗交痍,心腹如捣,常以未能食肉寝皮,絮肝饮血为恨也。虽余之百身高于草野,余之千尸裹于马革,亦愿为之。汝等久居门下,掌握兵权,无衣者则衣之以衣,无食者则食之以食,官卑者则迁其爵,禄薄者则给其俸,水行给舟,陆行给马,委之以兵则生死同其所为,进之在寝则笑语同其所乐,其是公坚之为偏裨,兀郎之为副贰,亦未下尔。汝等坐视主辱曾不为忧,身当国耻曾不为愧,为邦国之将侍立夷宿而无忿心,听太常之乐宴飨伪使而无怒色,或斗鸡以为乐,或赌博以为娱,或事田园以养其家,或恋妻子以私于己,修生产之业而忘军国之务,恣田猎之游而怠攻守之习,或甘美酒,或嗜淫声,脱有蒙鞑之寇来,雄鸡之距不足以穿虏甲,赌博之术不足以施军谋,田园之富不足以赎千金之躯,妻孥之累不足以充军国之用,生产之多不足以购虏首,猎犬之力不足以驱贼众,美酒不足以沈虏军,淫声不足以聋虏耳,当此之时,我家臣主就缚,甚可痛哉。不唯余之采邑被削,而汝等之俸禄亦为他人之所有;不唯余之家小被驱,而汝等之妻孥亦为他人之所虏;不唯余之祖宗社稷为他人之所践侵,而汝等之父母坟墓亦为他人之所发掘;不唯余之今生受辱,虽百世之下,臭名难洗,恶谥长存,而汝等之家清,亦不免名为败将矣。当此之时,汝等虽欲肆其娱乐得乎。今余明告汝等,当以措火积薪为危,当以惩羹吹虀为戒,训练士卒习尔弓矢,使人人逄蒙家家后羿,枭必烈之头于阙下,朽云南之肉于藁街,不唯余之采邑永为青毡,而汝等之俸禄亦终身之受赐;不唯余之家小安床褥,而汝等之妻孥亦百年之佳老;不唯余之宗庙万世享祀,而汝等之祖父亦春秋之血食;不唯余之今生得志,而汝等百世之下芳名不朽;不唯余之美谥永垂,而汝等之姓名亦遗芳于青史矣。当此之时,汝等虽欲不为娱乐得乎。今余历选诸家兵法,为一书名曰《兵书要略》,汝等或能专习是书,受余教诲,是夙世之臣主也;或暴弃是书,违余教诲,是夙世之仇雠也。何则?蒙鞑乃不共戴天之仇,汝等既恬然不以雪耻为念,不以除凶为心,而又不教士卒,是倒戈迎降,空拳受敌,使平虏之后,万世遗羞,上有何面目立于天地覆载之间耶。故欲汝等明知余心,因笔以檄云。
Ô hô! Nhất nhung đại định,hất thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ,hàm sử văn tri。
Là cái này phải không... Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có.